10 thg 2, 2013

Những pho sử đá

Sau mộc bản Triều Nguyễn, hệ thống 82 tấm bia tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới vào tháng 3 năm 2010. Đây là nơi lưu giữ đầy đủ và rõ ràng nhất về lịch sử khoa cử của các triều đại phong kiến Việt Nam. 

Bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám gồm 82 tấm bia đá, được dựng từ năm 1484 (niên hiệu Hồng Đức thứ 15) đến năm 1780 (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 41). Bia là nơi ghi danh những người đỗ tiến sĩ Nho học của các khoa thi Đình từ năm 1442 (niên hiêu Đại Bảo thứ 3) đến năm 1779 (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40).

Theo Đại Việt sử kí toàn thư, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, vua Lý Thánh Tông cho khởi công xây dựng Văn Miếu ở phía Nam kinh thành Thăng Long để thờ các bậc thánh hiền, các bậc nho gia có công với nước. Trong đó có thờ Khổng Tử, người sáng lập ra nền Nho giáo phương Đông và Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Năm 1076, cũng tại nơi đây, vua Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của Việt Nam bên cạnh Văn Miếu để làm nơi đào tạo nhân tài cho đất nước.

Lăng đá cổ Hiệp Hòa

Các triều đại phong kiến của Việt Nam đã để lại khá nhiều di sản kiến trúc có giá trị, trong đó có hệ thống lăng mộ làm bằng đá của các bậc quan lại. Hiện nay, ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang vẫn còn lại 26 khu lăng mộ thuộc loại này và đã sớm được công nhận là Di tích Văn hóa cấp Quốc gia, điển hình như lăng Dinh Hương, lăng họ Ngọ... 

Lăng họ Ngọ (còn gọi là Linh Quang từ) được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697) ở làng Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa. Đây là nơi lưu giữ di hài Quận công Ngọ Công Quế, một võ quan nổi tiếng dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705). Lăng được xây khi Quận công Ngọ Công Quế còn sống.

Tượng người và ngựa đá đứng chầu ở lăng họ Ngọ.

Thanh âm đại ngàn

Ai đã một lần lên Tây Nguyên, nghe tiếng cồng chiêng âm vang đầy huyền bí bên ánh lửa bập bùng giữa đại ngàn mới thấy được hết sức sống mãnh liệt và kì diệu của con người nơi đây. Chẳng thế mà có người đã ví, cồng chiêng là “linh hồn” của người Tây Nguyên.

Vậy là đã gần 6 năm kể từ ngày Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của nhân loại (25/11/2005). Sáu năm là quãng thời gian chưa phải đã là dài, nhưng cũng không phải là quá ngắn, để chúng ta có được một cái nhìn đầy đủ và thực tế hơn về di sản đặc biệt này, nhất là trong bối cảnh cuộc sống ở Tây Nguyên đang có nhiều thay đổi lớn như hiện nay.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc biệt này không ai khác chính là cư dân các dân tộc sinh sống ở Tây Nguyên như: Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai... 

Âm vang cồng chiêng Tây Nguyên. Ảnh: Minh Quốc

Vạn Niên cổ tự

Nằm ngay trên đường Lạc Long Quân ở phía tây Hồ Tây- Hà Nội, chùa Vạn Niên là một ngôi chùa cổ đã trường tồn cả nghìn năm cùng với mảnh đất Thăng Long lịch sử. 

Xưa chùa Vạn Niên từng có tên là Vạn Tuế, thuộc địa phận ấp Quán La, nay thuộc thôn Vệ Hồ, phường Xuân La, quận Tây Hồ, Hà Nội. Sách "Thăng Long cổ tích khảo" có chép rằng: "...Lý Thuận Thiên năm thứ 5 (1014), Hữu Nhai Tăng thống xin tâu lập giới đàn tại đây, thụ giới cho các tăng đồ. Vua xuống chiếu ban cho". Điều đó cho thấy, chùa Vạn Niên có thể đã được xây dựng từ trước thời nhà Lý, bởi ngay từ thời Lý chùa đã trở thành chốn tới lui tu hành của nhiều bậc cao tăng.


Bức cuốn thư cổ sơn đen thếp vàng.

Lễ hội đền Đức ông Trần Quốc Nghiễn

Đền Đức ông Trần Quốc Nghiễn (thuộc khu vực Bến Đoan - Hòn Gai - Quảng Ninh) là một di tích lịch sử nằm trong cụm di tích lịch sử văn hoá núi Bài Thơ bên bờ vịnh Hạ Long, Di sản Thiên nhiên Thế giới. Đền đẹp và có tiếng linh thiêng. Mới đây, Lễ hội đền Đức ông Trần Quốc Nghiễn đã được khai mạc, mở màn cho Tuần lễ Du lịch Quảng Ninh 2011.

Đức ông Trần Quốc Nghiễn là con trai cả của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, cháu đích tôn của An sinh vương Trần Liễu, cháu ruột của vua Trần Thái Tông. Ông đã lập được công lao to lớn trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống giặc Nguyên Mông cuối thế kỷ XIII và được phong là Khai Quốc Công của thời nhà Trần. 

Để ghi nhớ công ơn của Đức ông, dân trong vùng đã cho lập đền thờ. Tuy nhiên, trong thời gian chiến tranh, đền bị xuống cấp, các hoạt động văn hoá tâm linh tại đền cũng bị ngưng trệ. Mãi đến năm 2008, Lễ hội đền Đức ông mới chính thức được phục dựng.

Đoàn rước kiệu quy mô nhất trong vòng 4 năm trở lại đây.

Lễ hội cồng chiêng Lâm Đồng

Vừa qua, ngày 29 và 30/4, không gian văn hóa của cộng đồng các dân tộc tỉnh Lâm Đồng nói riêng và khu vực Tây Nguyên nói chung đã được hơn 300 nghệ nhân (thuộc ba dân tộc bản địa: K’Ho, Mạ, Chu Ru) tái hiện một cách sinh động trong Lễ hội cồng chiêng tỉnh Lâm Đồng lần thứ 5 diễn ra tại huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng.

Một mùa gieo trồng mới lại đến trong cái nắng oi ả của vùng đất cực Nam Tây Nguyên cũng là lúc buôn làng được dịp mở hội. Sức sống đại ngàn lại rộn rã bên bếp lửa rừng với cây nêu, men say của rượu cần, điệu múa xoang của các cô sơn nữ và những âm thanh ngân vang từ giàn chiêng 6 (của người K’Ho, người Mạ), chiêng 3 (của người Churu)… 

Và điểm nhấn của các hình thức nghi lễ trong Lễ hội cồng chiêng chính là Lễ đâm trâu (còn gọi là Lễ ăn trâu, Sa rơpu), một nét văn hóa đặc trưng mang đậm lối sống dân dã, gắn liền với tự nhiên của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Đây được xem là sự kiện mừng lúa mới, cầu an hay phá điềm xấu, điềm gở cho buôn làng. Có thể có nhiều ý kiến trái ngược nhau, nhưng tính nhân văn sâu sắc của Lễ đâm trâu vẫn đã thể hiện từ bao đời nay qua bài cúng “Khóc trâu” của đồng bào với trích đoạn: “…Ta thương trâu đã mười năm/Ta chăn trâu đã đủ trăm ngày/Mời trâu ăn nắm cỏ lần cuối/Mời trâu ăn lá cây lần cuối/… Trâu chết đi để buôn làng vui/Cho thần lúa xuống ở trong nia/Cho thần lúa xuống ở trong thùng”.

Con đường di sản ven Hồ Tây

Hồ Tây nằm ở phía Tây Bắc Hà Nội, diện tích hơn 500ha, là hồ rộng nhất Thủ đô và là hồ tự nhiên có hình móng ngựa, các nhà khảo cổ học đã chứng minh hồ là đoạn sông Hồng cũ còn sót lại sau khi thay đổi dòng chảy. Đặc biệt, các con đường bao quanh Hồ Tây như Lạc Long Quân, Âu Cơ, Nghi Tàm, Yên Phụ, Thanh Niên, Thụy Khuê... từ xưa đã nổi tiếng với những làng nghề, làng hoa, cây cảnh nổi tiếng như Yên Thái, Nghi Tàm, Quảng Bá, Nhật Tân và nhiều di tích lịch sử - văn hóa - kiến trúc tiêu biểu của Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến. Ngày nay, quanh Hồ Tây còn có thêm nhiều công trình văn hóa mới, hiện đại góp phần tô đẹp thêm cho cảnh sắc của Hà Nội.

Nằm ở phía Tây Hồ Tây, giữa vùng đất cổ thuộc tổng Bưởi (nay là phường Bưởi) có làng Võng Thị ẩn chứa nhiều nét nghề cổ xưa. Võng Thị ngày nay thanh bình với những con đường, ngõ nhỏ lát gạch cổ và tường gạch rêu phong. Các làng vùng Bưởi ven Hồ Tây hàng năm cứ tới ngày 16 tháng Ba âm lịch đều mở hội cúng Tổ nghề.

Du thuyền trên Hồ Tây.

9 thg 2, 2013

Chất quê Bình Quới

Từ trung tâm thành phố Hồ Chí Minh đi về hướng Bắc chừng mười cây số là đến Khu du lịch Bình Quới 1 và Khu du lịch Bình Quới 2. Đến đây, du khách sẽ được đắm mình trong một không gian đậm chất miền quê sông nước Nam Bộ với phong cảnh hữu tình và được thưởng thức những món ăn mang hương vị dân dã của người dân thời khai hoang mở ấp.

Khu du lịch Bình Quới 1 và Khu du lịch Bình Quới 2 cùng với Khu du lịch Tân Cảng, Văn Thánh và Tàu Nhà hàng Sài Gòn là 5 đơn vị của Làng Du lịch Bình Quới, thuộc Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn (SAIGONTOURIST). 

Tạm rời xa nội đô thành phố Hồ Chí Minh ồn ào náo nhiệt, đến với Khu du lịch Bình Quới 1, du khách bỗng thấy lòng mình trở nên thanh thản lạ thường trong một vùng không gian thanh bình, trong lành và thoáng đãng bên bờ sông Sài Gòn lộng gió. Bình Quới nổi tiếng với những thảm cỏ non xanh mượt mà, cùng bóng mát của những hàng dừa nước nghiêng mình bên dòng kênh Sở Nhật. 

Với những ai đi xa nay có dịp trở về, muốn tìm lại đôi chút bóng hình quê hương Nam Bộ xưa nay không còn nữa, thì Khu du lịch Bình Quới 1 chính là chốn để có thể thả hồn ôn lại kỉ niệm xưa. Ở đó, người ta có thể tìm thấy hình ảnh những chiếc xe thổ mộ, con kênh xanh xanh, chiếc xuồng ba lá, cây cầu khỉ lắt lẻo gập ghềnh khó đi, ngôi chòi lá nằm ẩn mình giữa bụi dừa nước bát ngát xanh rì...

Cảnh sông nước đặc trưng Nam Bộ ở Khu du lịch Bình Quới.

Di sản Hội Gióng

Hội Gióng không chỉ được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá là có tính độc đáo nhất trong tổng số hơn 7000 lễ hội dân gian truyền thống của người Việt, mà nó còn có những giá trị văn hóa - tín ngưỡng đặc biệt mang tầm nhân loại. Chính vì vậy, lễ hội này đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Nghìn năm hội Gióng vẫn còn.

Truyền thuyết kể rằng, vào thời Hùng Vương thứ 6 (khoảng 1718-1631 TCN), ở làng Gióng (nay thuộc xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội), có một chú bé mới 3 tuổi bỗng chốc vươn vai thành một thanh niên cường tráng, cưỡi ngựa sắt ra trận đánh đuổi giặc Ân phương Bắc xâm lược. Giặc tan, ông đến núi Sóc (nay thuộc xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) rồi bay về trời… 

Với những chiến công thần thánh ấy, dân gian gọi ông là “Phù Đổng Thiên Vương”, tục gọi là Thánh Gióng và suy tôn thành một trong “tứ bất tử” (bốn vị thánh bất tử trong tín ngưỡng Việt Nam gồm: Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử và Thánh mẫu Liễu Hạnh).

Lễ hội chùa Láng

Chùa Láng (hay còn gọi Chiêu Thiền tự) tại làng Láng Thượng (quận Đống Đa - Hà Nội) là ngôi chùa cổ nổi tiếng. Chùa thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, vị danh sư nổi tiếng thời Lý. Hội Chùa Láng được tổ chức hàng năm để tưởng nhớ công đức của Thiền sư và là sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của cư dân một vùng rộng lớn phía Tây Hà Nội.

Từ lâu, dân gian đã lưu truyền câu ca dao: “Nhớ ngày mùng bảy tháng ba, Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy”. Hội chùa Láng diễn ra trong thời gian nửa đầu tháng 3 âm lịch, trong tiết Thanh minh ấm áp. Hội là dịp để nhân dân tôn vinh, tỏ lòng biết ơn tới Thiền sư Từ Đạo Hạnh và vua Lý Thần Tông. Chính hội là ngày 7/3, tương truyền là ngày sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh.



Hồi trống khai hội chùa Láng.