12 thg 2, 2013

Hồn Việt trong món giò lụa và chả giò

Hai món ăn giò lụa và chả giò đã được các chuyên gia về ẩm thực và khách mời trao đổi trong bàn tròn “Giữ gìn bản sắc và giá trị ẩm thực truyền thống Việt Nam”, tổ chức tại nhà lưu niệm cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Phạm Văn Mùi (đường Trần Kế Xương, Q. Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh) vào ngày 21/12/2012.

“Không sợ là huênh hoang thiếu khiêm tốn, ta có thể nói rằng biết chế lợn ra thành cân giò lụa, đó là đỉnh cao của một dạng văn hóa dân tộc toàn cầu… Hình như giò lụa là một tiết mục độc đáo chỉ ta mới có, chỉ người Việt Nam ta mới nghĩ ra và làm ra” – nhà văn Nguyễn Tuân đã viết những dòng ấy trong tùy bút Giò lụa (năm 1973).

Giò lụa – tinh hoa ẩm thực Việt


Giò lụa

Đắng mà không đắng

Món ăn Huế có nhiều điều lạ lùng, một trong những điều lạ lùng nhất là sự pha trộn tinh tế những tương phản, đôi khi đến cực đoan. Sự cực đoan ấy nằm trong tô cơm hến cay xé, bát canh mướp đắng nấu với thịt cua, chén chè bột lọc bọc thịt quay vừa ngọt vừa mặn, món canh nấm tràm đắng ngắt…

Ở Huế, nấm tràm xuất hiện vào cuối mùa hè, khoảng tháng Tám, tháng Chín, khi những cơn mưa giông cuối mùa còn lần khân rơi xuống. Trên rừng, lá tràm rụng phủ thành lớp dưới đất, số nằm lại đó, số theo nước mưa dạt đi nơi khác rồi tụm lại thành đống.


Nấm tràm vừa hái

Sài Gòn - Dáng chợ năm xưa

Sài Gòn hai trăm năm mươi chợ, kể sao cho vừa. Trong thời khó khăn, kinh tế lạm phát, siêu thị, trung tâm thương mại đại diện cho phái "chợ ngoại" tràn lan, thì chợ Việt truyền thống với những món hàng để nấu cơm ba bữa, cây nhà lá vườn, tự sản tự tiêu đang bị co cụm. Trào lưu đưa hàng Việt về chợ đang được chú ý.

Tết ta, dạo chợ Việt, sắm món ngon truyền thống, nhớ chuyện đất lề quê thói, như một việc tất yếu.

Những ngôi chợ Sài Gòn xưa dưới đây có cái còn, nhưng cũng có cái đã đi vào dĩ vãng. Ngoài chợ Bến Thành ở khu trung tâm quen thuộc, chúng ta hãy "dạo qua" và ngắm lại một số chợ nổi tiếng khác, có cách nay trên nửa thế kỷ.

1. Chợ Cầu Ông Lãnh: Từ bến ghe chành trở thành ngôi chợ vào năm 1872, đầu mối hàng thủy sản. Năm 1946, dẹp lò mổ heo, phát triển thêm chợ Cầu Muối, đầu ngành nông sản, biến đường Lò heo (đường Nguyễn Thái Học) thành bến xe.

Tháng 4/1999, chợ Cầu Ông Lãnh cháy rụi. Đến năm 2004, cả hai chợ bị giải tỏa để làm đại lộ bờ sông. Ông Lãnh có lẽ là Lãnh Binh Thăng, còn Cầu Muối là cầu chuyển muối từ ghe miền Trung chở vào.


Đám cưới Chăm

Mới đây, tại Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam ở Đồng Mô (Hà Nội) đã tổ chức tái hiện một dám cưới truyền thống của người Chăm ở An Giang. 

Đám cưới Chăm là một nét đẹp văn hóa lâu đời của người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nghi lễ tái hiện đã kể lại hành trình một đám cưới Chăm rất công phu trong không khí trang trọng.

Trước khi lễ cưới diễn ra, cả dòng họ hai gia đình sẽ tiến hành một cuộc họp và làm bánh để cúng lễ trong ngày cưới. Việc trang trí giường cưới rất công phu, trang phục, chăn màn đều tinh tươm và rực rỡ với những gam màu sáng nhất. Chỉ khi nào ưng ý với giường cưới thì cả hai gia đình mới tiến hành làm lễ cầu nguyện tại nhà mình, mọi người cùng đọc những lời chúc may mắn để mong cô dâu, chú rể sẽ có một cuộc sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long.


Cô dâu Chăm với trang phục cưới truyền thống gồm áo dài màu đỏ, đầu đội mũ có nhiều hoa rực rỡ

Đêm phố Hội

Khi màn đêm buông xuống, Di sản Văn hóa Thế giới phố cổ Hội An trở nên lung linh huyền ảo trong muôn vạn ánh đèn lồng. Thoảng đâu đó trong đêm, điệu hò xứ Quảng của những người con gái phố Hội đằm thắm vang lên như níu giữ đôi chân du khách.

Đêm phố Hội bao giờ cũng sâu lắng, gợi cho du khách cái cảm giác thanh bình, ấm cúng, gần gũi như đang đi giữa chốn quê nhà của một thời xưa cũ.

Dọc theo các tuyến phố nhỏ, những ngôi nhà cổ với dãy đèn lồng treo cao trước cửa ra vào hắt ra mặt đường thứ ánh sáng đỏ hoặc vàng ấm áp. Các cửa hiệu bày bán nhiều món đồ lưu niệm mang đặc trưng của người phố Hội như đèn lồng vải, đồ may mặc bằng lụa, tò he đất nung, đồ thủ công mĩ nghệ bằng mây tre đan, đồng, gỗ…

Báu vật hoàng cung

Báu vật hoàng cung là những vật quý hiếm thuộc quyền sở hữu của hoàng gia như: ngọc tỉ truyền quốc, kim ấn, bảo kiếm... Hoàng cung vốn bí ẩn với người đời, nên bảo vật trong hoàng cung lại càng bí ẩn hơn, đến nỗi những người biết đến và được chiêm ngưỡng những bảo vật này hàng trăm năm qua cơ hồ chỉ có mấy người. Chính vì vậy những bảo vật này luôn phủ một bức màn bí ẩn, thậm chí nhiều người cho rằng chúng đã sớm không còn tồn tại hoặc đang nằm ở các bảo tàng, bộ sưu tập trên thế giới chứ không còn ở Việt Nam.

Thật may mắn, qua nhiều thăng trầm của lịch sử, những bảo vật của các triều đại Lê (1428-1788), Nguyễn (1802-1945): ấn vàng, kiếm vàng, sách vàng, đồ ngự dụng bằng vàng, ngọc... có số lượng tới hàng trăm chiếc vẫn còn được bảo quản, gìn giữ nguyên vẹn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đây là những bảo vật vô giá của nhân dân Việt Nam, không những chứa đựng những giá trị lịch sử, văn hóa phong phú mà còn phản ánh tài nghệ khéo léo của các nghệ nhân cung đình qua từng thời đại.

Bộ sưu tập hiện vật Bảo vật Hoàng cung bao gồm những báu vật liên quan tới đời sống của các vua, hoàng hậu triều Nguyễn (1802-1945) được bàn giao từ triều đình nhà Nguyễn cho Đại diện lâm thời Chính phủ Việt Nam. Năm 1961, lần đầu tiên những hiện vật này được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam trưng bày tại Thủ đô Hà Nội.

Ấn vàng của vua nhà Nguyễn (thế kỉ XIX).

Thiên Đường trong lòng đất

Động Thiên Đường thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình là một trong những hang động nằm trong vùng lõi núi đá vôi của Di sản Thiên nhiên Thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Động Thiên Đường được các chuyên gia hang động đánh giá là một trong những hang động đẹp nhất thế giới.

Năm 2005, trong một chuyến thám hiểm tại khu vực Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, các nhà thám hiểm thuộc Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh đã phát hiện ra một hang động lạ. Hang có lối vào rất hẹp, chỉ vừa một người chui, nhưng khi bước vào phía bên trong, các nhà thám hiểm đã vô cùng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp và kích thước kì vĩ của nó với nhiều khối thạch nhũ lung linh, kì ảo. Và họ đã đặt tên cho nó là động Thiên Đường.

Lối vào động Thiên Đường như đi xuống lòng đất.

11 thg 2, 2013

Chùa Thơ Mít

Ở xã Vĩnh Trung, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang có một ngôi chùa nổi tiếng của đồng bào Khmer, đó là chùa Thơ Mít.

Ngôi chùa bề thế trang nghiêm nằm giữa một khuôn viên rộng. Lối kiến trúc của chùa Thơ Mít nổi bật với mái cong, nóc nhọn, tháp cao vút cùng nhiều chi tiết chạm khắc công phu, tinh tế. Đây là nơi để cho bà con Phật tử đến sinh hoạt, vui chơi trong các dịp lễ hội. 

Với người Khmer Nam Bộ, ba thế hệ thường chung sống trong một nhà theo tín ngưỡng của Phật giáo Tiểu thừa nên mọi nghi thức lễ hội, đón mừng năm mới đều diễn ra ở các ngôi chùa cổ kính, mang đậm màu sắc đạo Phật, và chùa Thơ Mít chính là một ngôi chùa như thế. 

Cổng chùa Thơ Mít.

Trên dòng sông Thu

Từ đại ngàn Trường Sơn, trước khi đổ về biển lớn, con sông Thu Bồn không chỉ bồi đắp cho mảnh đất xứ Quảng chất đất phù sa màu mỡ mà còn góp phần tạo dựng nên nhiều dấu ấn văn hóa rực rỡ, trong đó có Di sản Văn hóa Thế giới Thánh địa Mỹ Sơn và phố cổ Hội An.

Con sông Thu Bồn khởi nguyên từ những dòng suối nhỏ chảy qua các cánh rừng nức mùi hương quế và loài sâm quý Ngọc Linh trên đỉnh núi Ngọc Linh cao hơn 2.500m nằm giữa đại ngàn Trường Sơn, thuộc địa phận huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. Từ đó cho đến địa bàn các huyện Tiên Phước, Hiệp Đức, con sông mang một cái tên quê mùa, dân dã: sông Tranh. Phải đến địa bàn huyện Quế Sơn và Duy Xuyên, khi hợp lưu với sông Vu Gia, nó mới trở thành một dòng sông chững chạc với danh xưng: Thu Bồn.



Sông Thu Bồn bắt nguồn từ nhiều con suối nhỏ trên đỉnh núi Ngọc Linh giữa đại ngàn Trường Sơn. Ảnh: Nguyễn Phước Chính.

Về Bến Tre thăm Cồn Phụng

Giống như một ốc đảo xanh nổi trên sông Tiền, Khu du lịch sinh thái Cồn Phụng nằm trên một cù lao thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đang là một trong những điểm đến hấp dẫn về du lịch sinh thái đối với du khách trong nước và quốc tế mỗi khi có dịp về thăm quê hương Đồng Khởi.

Cồn Phụng còn có tên là cồn Tân Vinh. Cồn Phụng lúc đầu chỉ là một cù lao nổi giữa sông Tiền vào những năm 1930 với diện tích khoảng 28 ha, nhưng do lượng phù sa bồi đắp dồi dào mỗi năm mà nay đã lên tới trên 50 ha.

Đây là một trong bốn cồn nằm trên đoạn sông Mĩ Tho được đặt theo quan niệm tứ linh mang điềm an lành hạnh phúc là: long, lân, quy, phụng. Cồn Rồng là "long", cồn Thới Sơn là "lân", cồn Quy (nằm phía sông Ba Lai) là "quy", và Cồn Phụng (còn gọi là cù lao Đạo Dừa) là "phụng". Tên Cồn Phụng có từ khi ông Nguyễn Thành Nam đến đây xây dựng chùa Nam Quốc Phật vào hồi đầu thế kỉ XX. Khi công trình này đang xây dựng, những người thợ nhặt được một cái chén cổ có hình con chim Phụng, nên đặt tên là Cồn Phụng. Ngoài ra, sở dĩ nó còn có tên gọi khác là cù lao Đạo Dừa là do ông Nguyễn Thành Nam khi đến đây xây chùa Nam Quốc Phật, đã thành lập nên một giáo phái gọi là Đạo Dừa. Đạo Dừa chủ trương mang lại hoà bình, sống bằng hoa trái.

Khu du lịch sinh thái Cồn Phụng là một điểm du lịch hấp dẫn với du khách trong nước và quốc tế mỗi khi có dịp về thăm quê hương Đồng Khởi. (Ảnh: Nguyễn Luân)