Hiển thị các bài đăng có nhãn Âm nhạc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Âm nhạc. Hiển thị tất cả bài đăng

8 thg 9, 2016

Sự tích cảm động về chiếc khèn Mông

Chiếc khèn tồn tại lâu đời và mang đậm bản sắc văn hóa của cộng đồng người Mông Nghệ An. Xung quanh chiếc khèn ấy còn chứa đựng câu chuyện cảm động về tình ruột thịt, anh em.

Đang ngồi lau chùi lại chiếc khèn lớn treo trên vách nhà, già làng Lầu Xái Phia (bản Nậm Khiên – Nậm Càn – Kỳ Sơn) bảo rằng: “Đời sống của người Mông không thể tách rời khỏi tiếng khèn. Tiếng khèn là tiếng nói của người Mông ta đó”.

Cây khèn luôn gắn bó với cuộc sống người Mông ở miền Tây xứ Nghệ. 

12 thg 8, 2016

Giọng hò hay nhất một thời

Đĩa than ghi âm giọng hò ngọt như mía lùi của bà vào năm 1957 đã được GS Trần Văn Khê mang đi giới thiệu ở 67 quốc gia và vùng lãnh thổ với sự hãnh diện và kính trọng. 

Nghệ sĩ Kim Nhụy bật khóc khi nghe lại băng ghi âm giọng hò của mình năm 1957 - Ảnh: V.TR. 

“Khi gặp bà, tôi thấy giống y như những gì tôi nghĩ. Điệu hò Đồng Tháp hay như thế, người hò có giọng uyển chuyển, ngọt ngào như thế thì phải xinh đẹp như thế 

GS Trần Văn Khê (theo lời bà Song Anh) 

Bà là nghệ sĩ Kim Nhụy, được người dân vùng Tháp Mười mến mộ gọi bà là “người hò Đồng Tháp hay nhất thế kỷ 20”.

6 thg 7, 2016

Độc đáo khèn Mông

Từ bao đời nay, chiếc khèn là nhạc cụ không thể thiếu được của đồng bào Mông. Chiếc khèn gắn bó mật thiết với đời sống văn hóa tinh thần, có mặt trong tất cả các ngày lễ, tết, là công cụ chuyển tải những cảm xúc buồn, vui của đồng bào Mông.

Tiếng khèn Mông lúc vi vút, xào xạc như cây rừng gặp gió, lúc véo von tựa chim trên đỉnh núi cao, lúc lại ào ào như thác đổ. Những dịp hội hè, hay trong các tang lễ họ đều đến thổi với những điệu khác nhau. 

26 thg 4, 2016

Chắp cánh cho tiếng đàn T’rưng

Nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cực bắc Tây Nguyên được gìn giữ, phát huy nhờ nỗ lực trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đam mê và sáng tạo, lớp người trẻ hôm nay đang chắp cánh cho những giá trị tinh thần quý giá lan tỏa, vang xa. 

Kaly Tran biểu diễn trong dàn hòa tấu đàn T’rưng 

Rong ruổi theo những chuyến lưu diễn ngoài tỉnh, sau tết Nguyên đán Bính Thân 2016, Kaly Tran có nhiều thời gian ở Kon Tum hơn. Vừa tham gia biểu diễn trong Chương trình “Trải nghiệm - Khám phá di sản văn hóa các dân tộc tại chỗ ở Kon Tum” Xuân Bính Thân 2016, chàng trai được xem là linh hồn của đội nghệ nhân Bahnah làng Kon Klor ( Phường Thắng Lợi, TP Kon Tum ) lại chuẩn bị tiết mục chào mừng khai mạc Liên hoan Văn hóa dân gian Tây Nguyên gắn với Tuần Văn hóa- Du lịch tỉnh Kon Tum lần thứ 3-năm 2016. Tiếng đàn T’rưng mộc mạc trong đời sống của lũ làng thuở nào, giờ đây, trở nên mới mẻ, lôi cuốn, hấp dẫn.

25 thg 4, 2016

Độc đáo Chiêng Tre

Có người nói rằng chiêng Tre là món quà của núi rừng Tây Nguyên ban tặng cho đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây! Quả không “ngoa” nếu một lần bạn được thưởng thức những âm thanh trầm, bổng, thánh thót phát ra từ loại nhạc cụ này. Cũng độc đáo, cũng hấp dẫn, lôi cuốn không kém gì chiêng đồng vậy!

Chiêng Tre được các nghệ nhân biểu diễn cùng các loại nhạc cụ làm bằng tre, nứa, lồ ô 

Khi ông mặt trời trườn mình khuất sau sườn núi, nghệ nhân A Long – người con của dân tộc Ba Na, làng Kon Tum Kơ pâng, phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum kết thúc một ngày lên rẫy thong thả về nhà. Chiếc gùi trên vai A Long chứa nhiều ống tre ngắn dài khác nhau vừa được anh tranh thủ chặt trước khi về. 

20 thg 12, 2015

Giai điệu của “Trời”

Trong đời sống sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Thái ở các tỉnh miền núi phía Bắc, hát then được ví là điệu hát của “thần tiên”, là giai điệu của “Trời”, nó bắt nguồn từ chính cuộc sống lao động của họ, và gắn liền với họ từ lúc sinh ra cho đến tận lúc lìa đời. Vì thế, người ta có thể tìm thấy trong then những giá trị nhân sinh quan mang tính toàn cầu.

Sống cùng then, chết cũng theo then về Trời

Theo quan niệm của người Tày, Nùng, Thái, then có nghĩa là “Trời”. Hát then trong lễ cúng then là một loại hình diễn xướng âm nhạc tín ngưỡng dân gian, có nội dung thuật lại cuộc hành trình của con người lên thiên giới cầu xin Ngọc Hoàng ban cho những điều may mắn và một cuộc sống tốt lành.

Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian, then vừa là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng, tâm linh, vừa là một loại hình âm nhạc dân gian. Toàn bộ hệ thống bài bản của then có gần bốn nghìn câu thơ, nội dung của nó phản ánh mọi khía cạnh của cuộc sống, từ chuyện đời sống, bản mường, chim muông, đến chuyện tình yêu, ma chay, cưới hỏi, phu phen, tạp dịch… Lễ cúng then là một màn trình diễn nghệ thuật lôi cuốn, có khả năng đưa con người chìm đắm vào miền siêu thực. Vì thế, khi nghiên cứu sâu các lễ then cổ truyền, người ta có thể thấy rõ nhân sinh quan, thế giới quan và bản sắc văn hóa của đồng bào Tày, Nùng, Thái.

11 thg 8, 2015

Chuyện xẩm

Xưa, xẩm là loại hình âm nhạc của các nghệ sĩ hát rong và là món ăn tinh thần của tầng lớp bình dân. Ngày nay, đến với không gian “Chuyện xẩm”, một chương trình nghệ thuật hát xẩm do các nghệ sĩ bậc thầy về cổ nhạc của Việt Nam thể hiện, khán giả không khỏi ngạc nhiên trước sự độc đáo cũng như tính nhân văn của loại hình nghệ thuật âm nhạc truyền thống nổi tiếng này. 

Trong không gian ấm cúng của một tư gia ở khu phố cổ Hà Nội, không âm thanh phụ trợ, không trang hoàng lộng lẫy, chỉ với manh chiếu cùng trang phục quần nâu, áo vải, khăn mỏ quạ,... NSND Thanh Hoài và NSND Xuân Hoạch đã tái hiện lại một cách đầy đủ và sinh động nhất đời sống cũng như cái hồn của nghệ thuật hát xẩm bằng chất giọng và những ngón đàn điêu luyện của mình.

18 thg 6, 2015

Giọng ca trầm buồn như sóng biển

Giọng hát buồn, phong thái từ tốn, chậm rãi và đôi mắt lúc nào cũng u uẩn, hơn 50 năm gắn liền với sân khấu của Thanh Sang dường như là một giấc mơ đối với anh chàng ngư dân nghèo, giấc mơ đầy sóng gió và cũng lắm niềm vui, nỗi buồn…

NSƯT Thanh Sang và NSƯT Bạch Tuyết trong vở Kiều Nguyệt Nga - Ảnh: H.K 

17 thg 6, 2015

Đi xem canh hát cửa đình

Vào các buổi tối thứ 6, thứ 7 và Chủ nhật hằng tuần, tiếng hát của những ca nương Giáo phường Ca trù Thăng Long lại vang lên trong không gian cổ kính của đền Quan Đế (Hàng Buồm, Hà Nội) đón du khách quốc tế đến tìm hiểu về loại hình nghệ thuật ca trù của Việt Nam. 

Theo Nghệ nhân Phạm Thị Huệ, với mong muốn bảo tồn và phát huy những giá trị của Di sản ca trù trong kho tàng âm nhạc của Việt Nam, Giáo phường ca trù Thăng Long đã mở canh hát tại đền Quan Đế vào ba buổi tối cuối tuần đã hơn một năm nay.

Lúc mới mở, canh hát rất ít khách đến nghe. Nhờ có sự phối hợp với một số công ty du lịch đưa thêm tour nghe ca trù đền Quan Đế vào lịch trình dành cho du khách nước ngoài tới thăm Hà Nội nên lượng khách tới nghe hiện trung bình mỗi canh hát ít nhất là 20 khách.

Du khách nước ngoài đăng ký xem biểu diễn ca trù tại Đền Quan Đế (28 hàng Buồm, Hà Nội).

11 thg 6, 2015

Trong chiến tranh vẫn cất lời Tình ca

Từ Sài Gòn vòng xuống Mỹ Tho để vào Chiến khu Đồng Tháp Mười, băng qua nhiều năm chiến tranh, nhạc sĩ Hoàng Việt lúc nào cũng nghe thấy lời tình ca trong hoàn cảnh khó khăn, thậm chí trong gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba.

Nhạc sĩ Hoàng Việt và vợ - Ảnh: tư liệu

Bàn chân giẫm gai lòng không thở than

Lên ngàn (1952) - bài hát của nhạc sĩ Hoàng Việt có âm hưởng của những điệu hò trên dòng sông Vàm Cỏ Đông chảy xiết dường như đã trở thành một ám ảnh với nhà báo Thạch Minh, báo Tây Ninh. Ba mươi năm ở Tây Ninh, ông Minh chỉ muốn biết chắc chắn địa danh trong lời ca “Em chèo thuyền đi lên rẫy Trảng Cồng/Cắt lúa thay chồng, thay chồng nuôi con” ở đâu. Rồi, ông cũng tìm thấy. Đất có tên Trảng Còng (trong bài hát chệch thành Trảng Cồng) nhằm ghi dấu cây còng - thứ cây sinh trưởng mạnh, thân cây lâu năm to hơn vòng tay, gỗ dẻo, có thể uốn làm cán dao rựa, cũng như làm cót thay bồ chứa lúa. Đấy cũng là chiến khu xưa.

12 thg 5, 2015

Nghe ca Huế trên sông Hương

Đến Cố đô Huế, buổi tối đi thuyền trên sông Hương nghe câu hát, điệu hò làm say lòng du khách. Một nét mới trong việc tổ chức tour ca Huế trên sông Hương đó là ngoài sử dụng nhạc cụ dân tộc để chơi âm nhạc truyền thống, các nhạc công còn có thể chơi được những bản nhạc nước ngoài quen thuộc để phục vụ các du khách đến từ các quốc gia khác nhau. 

Để tham gia vào chương trình, chúng tôi có mặt ở bến tàu gần cây cầu Trường Tiền mua vé và xuống thuyền Rồng để tham dự một chương trình ca Huế. Đến giờ, khách đã ngồi kín chỗ trên khoang thuyền. Thuyền bắt đầu rời bến xuôi dòng sông Hương. Về đêm, thành quách hai bên bờ sông nguy nga và rực rỡ hơn trong ánh đèn màu trang trí. Ra đến giữa dòng, thuyền được tắt máy và thả trôi, trả lại không gian yên tĩnh cho dòng sông và chương trình được bắt đầu.

Ca Huế được hình thành từ dòng ca nhạc dân gian với ca nhạc cung đình. Ca Huế thể hiện theo hai dòng là điệu Bắc và điệu Nam. Điệu Bắc gồm những bài ca mang âm điệu tươi tắn, trang trọng. Điệu Nam là những bài âm điệu buồn, ai oán với trên 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc. Dàn nhạc để biểu diễn ca Huế gồm có nhạc công với trang phục áo the đầu đội khăn xếp, chơi các nhạc cụ đàn nhị, đàn nguyệt, sáo và đàn bầu. Các ca công là nữ với trang phục áo dài truyền thống và chơi các nhạc cụ sanh loan, sanh tiền.


Bến thuyền tập kết du thuyền, phương tiện để chở người nghe ca Huế  bên bờ sông Hương gần cây cầu Trường Tiền, một biểu tượng của Huế.

12 thg 3, 2015

Những người làm nên sức sống cho điệu múa trống Xa-dăm

Hồi cuối năm 2014, nghệ thuật múa trống Xa-dăm (Chhay dam) của người Khmer ở ấp Trường An, xã Trường Tây đã được Bộ Văn hoá, Thể thao & Du lịch công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia.

Sự kiện này cũng làm nhiều người đặt câu hỏi: Tây Ninh chỉ là một tỉnh nhỏ, đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ không nhiều so với các tỉnh miền Tây Nam bộ như Sóc Trăng, Trà Vinh... Tỉnh Trà Vinh còn có một đoàn nghệ thuật Khmer được Nhà nước bao cấp, đó là đoàn Ánh Bình Minh.

Vậy sao điệu múa trống của một xóm Khmer không đông lắm ở Tây Ninh lại được tôn vinh như thế? Những ai đã từng thưởng thức điệu múa trống Xa- dăm ấy chắc sẽ dễ dàng công nhận ngay mà không thắc mắc. Cũng có nhiều người đã biết điệu múa ấy hay và đẹp (do ở âm thanh dân dã, do các mảng miếng khi múa, khi lăn hoặc khả năng chơi trống bằng nhiều phần cơ thể của người múa…) nhưng nếu bảo nhận xét cụ thể hơn thì đành chịu! Vậy phải đi tìm lý do thôi, mà tốt nhất là bắt đầu với những người trong cuộc- những người dân ở ấp Trường An, xã Trường Tây. 

Múa trống Xa-dăm. 

22 thg 2, 2015

Về Bùi Xá nghe hát trống quân

Là loại hình nghệ thuật dân gian tồn tại hơn 700 năm, hát trống quân Bùi Xá đến nay vẫn được người dân thôn Bùi Xá (xã Ninh Xá, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) bảo tồn và phát huy thành nét đẹp văn hóa tinh thần của vùng đất Kinh Bắc.

Theo cụ Phạm Công Ngát, nghệ nhân cao tuổi của Câu lạc bộ Trống quân Bùi Xá thì phong trào hát trống quân ở Bùi Xá có từ thế kỷ thứ XIII ở triều đại nhà Trần và phát triển hưng thịnh nhất trước năm 1945. Thời kỳ đó, cứ mỗi dịp trăng rằm tháng Tám âm lịch các đôi nam thanh nữ tú của làng vừa thi hát đối giao duyên vừa ngắm trăng trước sự chứng kiến và cổ vũ của toàn dân và đông đội trên bãi cỏ trước cửa đình làng, cuộc thi kéo dài cho đến lúc trăng tàn. Không những thế hát trống quân của Bùi Xá đã nổi tiếng khắp kinh thành Thăng Long và được vua Trùng Quang đời Trần mời về hát. Vào giai đoạn chống Mỹ cứu nước, hát trống quân Bùi Xá lắng dần do nhiệm vụ đánh giặc cứu nước của toàn dân tộc.

Lê Bá Bạo 72 tuổi, Chủ nhiệm CLB Trống quân Bùi Xá,một trong những thành viên đầu tiên của CLB của những người yêu thích hát trống quân.

Dù Kê – loại hình nghệ thuật độc đáo của người Khmer Nam Bộ

Những tích truyện từ ca kịch dù kê, món ăn tinh thần của người Khmer Nam Bộ trong suốt mấy chục năm qua đã in sâu trong đời sống chân chất, mộc mạc, vun đắp nên tình làng nghĩa xóm để khẳng định, giữ gìn những nét đặc sắc riêng có của dân tộc mình.

Dù Kê – loại hình nghệ thuật độc đáo của người Khmer Nam Bộ. Ảnh: Internet

Người Khmer ở Nam bộ vốn có nền văn hóa nghệ thuật rất độc đáo, đa dạng đã phát triển khá lâu đời, trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống xã hội của bà con dân tộc và luôn được bảo tồn, phát huy.

13 thg 2, 2015

Về miền Ví, Giặm

Ngày 27/11/2014, tại Thủ đô Paris (Pháp), dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh đã chính thức được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại, đây là di sản văn hóa phi vật thể thứ 9 của Việt Nam được tôn vinh trên trường quốc tế. 
«
          Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ là hai lối hát dân ca không có nhạc đệm, do cộng đồng hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáng tạo, lưu truyền trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt. Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ được thực hành trong cuộc sống, lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc dệt vải, xay lúa… Vì vậy, các lối hát thường được gọi tên theo các hình thức lao động và sinh hoạt như: Ví Phường Vải, Ví Phường Đan, Ví Phường Nón, Ví Phường Củi, Ví Trèo Non, Ví Đò Đưa, Giặm Ru, Giặm Kể, Giặm Khuyên… Hai lối hát dân ca này thường được hát xen kẽ cùng nhau nên có tên ghép là dân ca Ví, Giặm.
»

Dân ca Ví, Giặm có một sức sống cực kì mãnh liệt. Sức sống ấy không phải chỉ có ở quá khứ, mà đến nay nó vẫn đang không ngừng sinh sôi nảy nở trong chính tâm hồn người dân xứ Nghệ hôm nay. Chẳng thế mà người xứ Nghệ có câu nói nổi tiếng rằng: “Bao giờ người xứ Nghệ mất đi giọng nói thì lúc đó mới mất đi tiếng hát dân ca Ví, Giặm”.

Ngay sau khi dân ca Ví, Giặm chính thức được UNESCO vinh danh, chúng tôi đã về Nghệ An, về với “miền Ví, Giặm” để khám phá tính đặc biệt của loại hình dân ca này.

1. 
6h sáng, chúng tôi rời Hà Nội đúng vào ngày tiết trời lạnh giá nhất của mùa đông để bắt đầu chuyến hành trình tìm về “miền Ví, Giặm”. Địa danh đầu tiên chúng tôi đến là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây được coi là một trong những nơi có phong trào hát dân ca Ví, Giặm phát triển mạnh mẽ nhất và cũng là cái nôi của điệu Ví Phường Vải, một trong những điệu Ví nổi tiếng của dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh.

Đón đoàn chúng tôi là anh Trịnh Hưng Minh, cán bộ văn hoá huyện Nam Đàn. Là cán bộ văn hóa, anh Minh cũng là người soạn lời phần lớn các bài hát Ví, Giặm cho các Câu lạc bộ (CLB) ở trong vùng. Anh Minh đưa chúng tôi đến một ngôi nhà cổ có niên đại cả trăm năm ở xã Kim Liên, nơi sinh hoạt thường xuyên của gần 30 thành viên trong CLB Ví Phường Vải Kim Liên.

20 thg 11, 2014

Tôi hát bài ca ngợi ca cây... cà phê!

Ở Việt Nam, cây được người ta ăn nhiều nhất là cây lúa. Dĩ nhiên không phải nhai sống cây lúa, mà là ăn những thành phẩm của nó: cơm, cháo, cốm...

Còn cái cây được người ta uống nhiều nhất có lẽ là cây cà phê. Cà phê đen, cà phê đá, cà phê sữa... Có thể nếu tính theo dung tích thì người ta uống bia nhiều hơn, nhưng tính theo số lần uống thí ắt là cà phê nhiều hơn. Vả lại, không nên kể bia vô đây vì nó không phải cây Việt Nam.

Cây cà phê

2 thg 7, 2014

Người chinh phu về đâu?

Ngay đoạn đầu nhạc phẩm Hòn vọng phu 3 (Người chinh phu về), Lê Thương đã viết:

Nơi phía Nam
Giữa núi mờ
Ai bế con
mãi đứng chờ


Vậy là người vọng phu chờ ở phương Nam. Chờ ở đâu nơi phương Nam?

Còn chàng đang đi về từ phương Bắc xa xôi:




Đò vạn lý, đò ải quan,
Đò rừng lá nước trong bao cá lội từng đàn
Thành Cổ Loa, Đền Vạn Kiếp,
Bao tháng năm dấu chưa xóa nhòa


Chàng đi qua Cổ Loa (Hà Nội), đến Vạn Kiếp (Hải Dương) của miền Bắc, qua miền Trung:

Vượt Hoành Sơn
Vòng thành Huế
Mong tới nơi cô thôn ước thề.


Chàng sẽ về đến miền Nam, vì đó là nơi nàng đang ôm con đứng đợi mà. Và đây là nơi nàng đang chờ chàng ở phương Nam:

Từ dạ đất miền Đồng Nai
Lời hẹn ước tương lai
đang chúc mừng chàng về
Chờ nhìn con, chờ người đón,
bao nét xưa ước mong sẽ còn


A, vậy là người chinh phu về Đồng Nai.

Hic, ta biết rồi, chàng về chẳng còn gặp lại nàng mà chỉ thấy

Núi đá thu rêu đã lấp mờ bao nghìn xưa

bởi vì

Thời gian đã thắm biết bao suy tàn
Người xưa đâu còn hình đá bơ vơ đứng đợi chồng đi đã không hứa về


Lòng son lụn chí trước cơn hư thề
Đà xuôi tan tành đời đá nên mưa gió đổ quạnh hiu xuống ai mới về


Đồng Nai có hòn vọng phu ở đâu? Chắc chắn là đèo Mẹ Bồng Con ở Long Khánh rồi!

Đèo Mẹ Bồng Con - Ảnh: Phạm Tường Nhân

Vậy là người chinh phu trong nhạc phẩm bất hủ của Lê Thương đi về là về... Long Khánh!


Nhảm chơi vậy thôi, chuyện chàng chinh phu về Đồng Nai hay về đâu có gì là quan trọng. Chỉ là buồn buồn, nghe nhạc thấy nhớ cố hương xao xuyến tấc lòng, vậy thôi!

Phạm Hoài Nhân

29 thg 5, 2014

Gành Hào ơi...!

Tôi không phải dân Bạc Liêu hay Cà Mau nên không gắn bó gì với tên sông Gành Hào hay huyện Gành Hào, nhưng tôi thích nghe bài Đêm Gành Hào nhớ điệu hoài lang của Vũ Đức Sao Biển nên nhập tâm hai tiếng Gành Hào. Gành Hào ơi, nửa đêm ai hát lên câu hoài lang

Bạc Liêu ơi có nhớ chăng ai? 

Thuở ấy thanh xuân, trăng Gành Hào tròn như chiếc gương
Giờ tóc pha sương qua Gành Hào tiếc một vầng trăng

Và rồi khi đi qua Cà Mau, Bạc Liêu, được giới thiệu rằng mình đang đi trên sông Gành Hào thì nghe lòng xao xuyến lạ: đêm Gành Hào nhớ điệu hoài lang...



5 thg 5, 2014

Hoa thông thiên hình quả chuông nho nhỏ

Hoa thông thiên là tên một bài hát do Phạm Duy phổ nhạc từ thơ của Đào Tiến Luyện. Ca khúc này được thể hiện rất truyền cảm qua giọng ca Duy Quang.

Nội dung bài hát là câu chuyện một cuộc tình giữa chàng trai và cô gái miền quê, trong đó bóng dáng hoa thông thiên bàng bạc. Ngày chia tay chàng ra chốn thành đô, đôi lứa hẹn hò nhau bên những đóa thông thiên:

Ngày chia ly tay trong tay ủy mị,
Ngón ngọc ngà nhẹ bứt đóa thông thiên
Cài lên áo đây cánh hoa diễm lệ
Bóng hình em người em gái dịu hiền


16 thg 4, 2014

5 anh em trên một chiếc xe tăng

1. 

Tại Di tích Lịch sử Chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh (huyện Đắk Tô, Kontum) có 2 chiếc xe tăng. Cậu hướng dẫn viên giới thiệu với tôi:
  • Đây là 2 chiếc xe tăng T54 tham gia chiến trường Đắk Tô - Tân Cảnh năm 1972. Một trong 2 chiếc xe tăng này là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Doãn Nho sáng tác bài Năm anh em trên một chiếc xe tăng. Trong trận chiến Đắk Tô - Tân Cảnh 1972, chiếc xe tăng này đã bị bắn cháy và toàn bộ kíp lái 5 người đã hy sinh cùng với chiếc xe tăng của mình.
Đó là 2 chiếc xe tăng mang số hiệu 377 và 472. Tôi vốn không rành về quân sự, nên nghe vậy biết vậy, lấy làm xúc động và chụp ảnh lưu niệm với một trong 2 chiếc xe tăng.