Ngày cuối tuần, tôi cùng bạn về thăm nhà ở phường Phổ Thạnh (TX.Đức Phổ). Sáng sớm, tôi cùng bạn ra thăm chợ quê. Chợ bán nhiều hải sản tươi ngon, thích nhất là những tràng cá cơm nồm trắng sáng. Hôm ấy, tôi được bạn chiêu đãi món cá cơm nồm tẩm bột chiên.
29 thg 3, 2024
Cá cơm nồm tẩm bột chiên
Cứ mỗi độ tháng Hai, tháng Ba, các chợ ở Quảng Ngãi bán nhiều cá cơm nồm. Cá cơm nồm được chế biến thành nhiều món ăn như kho khô, chiên xù cùng xả ớt, canh chua... nhưng tôi thích nhất món cá cơm nồm tẩm bột chiên.
Ngày cuối tuần, tôi cùng bạn về thăm nhà ở phường Phổ Thạnh (TX.Đức Phổ). Sáng sớm, tôi cùng bạn ra thăm chợ quê. Chợ bán nhiều hải sản tươi ngon, thích nhất là những tràng cá cơm nồm trắng sáng. Hôm ấy, tôi được bạn chiêu đãi món cá cơm nồm tẩm bột chiên.
Ngày cuối tuần, tôi cùng bạn về thăm nhà ở phường Phổ Thạnh (TX.Đức Phổ). Sáng sớm, tôi cùng bạn ra thăm chợ quê. Chợ bán nhiều hải sản tươi ngon, thích nhất là những tràng cá cơm nồm trắng sáng. Hôm ấy, tôi được bạn chiêu đãi món cá cơm nồm tẩm bột chiên.
28 thg 3, 2024
Tháng Ba về Xuân Trường ngắm sắc trắng hoa lê
Xã Xuân Trường, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, vẻ đẹp hùng vĩ, hoang sơ, như dốc 15 tầng - Khau Cốc Chà, hồ Thôm Lốm, Di tích lịch sử quốc gia đồn Đồng Mu, cùng với nhiều đặc sản địa phương như: gạo nếp hương, mận máu... Đặc biệt, vào những ngày cuối Xuân, khi những cánh đào đã phai sắc thắm, những triền đồi bắt đầu đỏ rực rỡ bởi hoa mộc miên, thì những đóa hoa lê trắng nơi đây cũng bắt đầu khoe sắc.
Dặt dìu tiếng khèn Mông trên cao nguyên Gia Lai
Gần 40 năm kể từ khi đồng bào Mông đến lập nghiệp tại xã Ya Hội, huyện Đak Pơ (Gia Lai), bà con đã cùng nhau lưu giữ được nhiều nét văn hóa đặc trưng, trong đó có tiếng khèn Mông hòa cùng những điệu múa truyền thống được gìn giữ nơi quê mới.
Bình yên làng cổ Vi Rơ Ngheo
Cách huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum khoảng 50 km, làng Vi Rơ Ngheo của người Xơ Đăng ở xã Đăk Tăng được bao bọc bởi núi rừng nguyên sơ, ruộng bậc thang xanh ngát, sắc hồng địa lan thơ mộng… đã tạo thành điểm đến hấp dẫn du khách.
27 thg 3, 2024
Ngô Đồng, dòng sông không có bờ
Cảm giác đi trên con sông có cái tên lãng mạn ấy khó phai cho bất cứ ai, nhất là khi bất ngờ chạm gặp những ruộng lúa đang vào mùa gặt, nhuộm vàng cả con sông.
Việt Nam có tới 2.360 con sông, kênh lớn nhỏ với tổng chiều dài khoảng 41.900 km. Trong những chuyến đi của mình, tôi đã đến không biết bao nhiêu dòng sông, và mỗi dòng sông đều mang trong mình những ký ức, những kỷ niệm và là chốn nương nhờ trong những cuộc mưu sinh.
Đó là sông Hương ở Huế, với những con thuyền rực rỡ trong đêm đưa du khách hòa vào tiếng nhạc. Đó là sông Hoài ở Hội An, với những con thuyền chèo không dùng động cơ như sợ phá đi di sản hàng trăm năm đậm màu xưa cũ. Tôi cũng đã đến sông Tiền, cùng mọi người đi chợ nổi Cái Lậy và cũng đến Đắc Lắc nghe tiếng nước réo ầm ào giữa đại ngàn của sông Sêrêpôk…
Việt Nam có tới 2.360 con sông, kênh lớn nhỏ với tổng chiều dài khoảng 41.900 km. Trong những chuyến đi của mình, tôi đã đến không biết bao nhiêu dòng sông, và mỗi dòng sông đều mang trong mình những ký ức, những kỷ niệm và là chốn nương nhờ trong những cuộc mưu sinh.
Đó là sông Hương ở Huế, với những con thuyền rực rỡ trong đêm đưa du khách hòa vào tiếng nhạc. Đó là sông Hoài ở Hội An, với những con thuyền chèo không dùng động cơ như sợ phá đi di sản hàng trăm năm đậm màu xưa cũ. Tôi cũng đã đến sông Tiền, cùng mọi người đi chợ nổi Cái Lậy và cũng đến Đắc Lắc nghe tiếng nước réo ầm ào giữa đại ngàn của sông Sêrêpôk…
Dòng sông mang tên 'Rồng lớn' giữa núi rừng Trường Sơn
Người ta ví sông Long Đại như con rồng lớn để thấy được sự hùng vĩ của nó. Thực ra sông Long Đại có nhiều tên gọi khác nữa. Đó là Đại Giang, là Nguồn Côộc.
Gọi là Đại Giang vì đây là con sông lớn nhất, hoành tráng nhất chảy xuyên qua giữa rừng Trường Sơn hùng vĩ.
Tôi sinh ra và lớn lên bên dòng sông Long Đại, và cũng chính làng quê tôi lại mang tên của dòng sông ấy - làng Long Đại,thuộc huyện Quảng Ninh của tỉnh Quảng Bình. Nhiều lần bố tôi giảng giải rằng: Long Đại nghĩa là “Rồng lớn”.
Gọi là Đại Giang vì đây là con sông lớn nhất, hoành tráng nhất chảy xuyên qua giữa rừng Trường Sơn hùng vĩ.
Tôi sinh ra và lớn lên bên dòng sông Long Đại, và cũng chính làng quê tôi lại mang tên của dòng sông ấy - làng Long Đại,thuộc huyện Quảng Ninh của tỉnh Quảng Bình. Nhiều lần bố tôi giảng giải rằng: Long Đại nghĩa là “Rồng lớn”.
Đình An Hoà vào hội Kỳ yên
Đình An Hoà, tiền thân là ngôi miếu Ông được lập nên ở đầu rạch Trảng Bàng, sông Vàm Cỏ Đông, đối diện với miếu Bà Thuỷ Long.
Theo hồ sơ đình An Hoà ghi chép lại, ông Trịnh Văn Đống (tự Thiện) là người gốc ở Thanh Hoá, sinh năm 1821, tại xóm Lò Mo. Lớn lên, ông theo ông Trương Công Định đánh Pháp, có nhiệm vụ lập hai đồn chống Pháp ở bìa sông Vàm Cỏ Đông và ở giữa rạch Trảng Bàng. Trong lúc đóng đồn ở bìa sông Vàm Cỏ Đông, ông thấy có ngôi miếu cổ- không biết có từ bao giờ, cũng không biết thờ ai- đề là “miếu Ông”. Thấy ngôi miếu cổ bị hư sập, ông Trịnh Văn Đống nguyện rằng khi có điều kiện sẽ di dời miếu về một nơi thuận lợi.
Chính điện đình An Hoà.
Theo hồ sơ đình An Hoà ghi chép lại, ông Trịnh Văn Đống (tự Thiện) là người gốc ở Thanh Hoá, sinh năm 1821, tại xóm Lò Mo. Lớn lên, ông theo ông Trương Công Định đánh Pháp, có nhiệm vụ lập hai đồn chống Pháp ở bìa sông Vàm Cỏ Đông và ở giữa rạch Trảng Bàng. Trong lúc đóng đồn ở bìa sông Vàm Cỏ Đông, ông thấy có ngôi miếu cổ- không biết có từ bao giờ, cũng không biết thờ ai- đề là “miếu Ông”. Thấy ngôi miếu cổ bị hư sập, ông Trịnh Văn Đống nguyện rằng khi có điều kiện sẽ di dời miếu về một nơi thuận lợi.
Đất và người Quảng Ngãi qua một bài thơ thời cận đại
Đó là bài thơ “Quá Quảng Nghĩa tỉnh” của tác giả Trần Bích San (1840 - 1877). Trần Bích San là người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Ðịnh, nay là phường Vị Hoàng, TP.Nam Định, tỉnh Nam Định. Năm Giáp Tý (1864), ông đỗ đầu kỳ thi Hương, năm sau đỗ đầu thi Hội và thi Đình, nên người đời gọi ông là Tam nguyên Vị Xuyên.
Ông ra làm quan, lần lượt giữ các chức vụ: Hàn Lâm tu soạn, Án sát Bình Định, Biện lý bộ Hộ, Tuần phủ Hà Nội, từng được cử đi sứ sang Trung Quốc. Năm Đinh Sửu (1877), ông được thăng Tham tri bộ Lễ và được cử làm Chánh sứ sang Pháp, nhưng chưa kịp đi, ông đột ngột mất ở Huế.
Ông ra làm quan, lần lượt giữ các chức vụ: Hàn Lâm tu soạn, Án sát Bình Định, Biện lý bộ Hộ, Tuần phủ Hà Nội, từng được cử đi sứ sang Trung Quốc. Năm Đinh Sửu (1877), ông được thăng Tham tri bộ Lễ và được cử làm Chánh sứ sang Pháp, nhưng chưa kịp đi, ông đột ngột mất ở Huế.
26 thg 3, 2024
Con đường hoa sưa
Tháng Ba. Mưa phùn lất phất bay. Phố chìm trong sương mù ẩm ướt. Chiều cuối tuần, tôi dắt xe ra khỏi nhà đi rong ruổi. Lúc ngang qua con phố nhỏ, như có một điều gì đó níu kéo khiến tôi dừng xe. Một làn hương khẽ chạm vào khoang mũi thoang thoảng thơm ngọt ngào. Tôi dõi mắt xung quanh và lòng đầy phấn khích khi thấy hai bên đường những cây hoa sưa đang nở rộ một màu trắng tinh khôi.
Mật ngữ nghề biển
Mật ngữ là cách dùng từ để giữ bí mật trong thông tin liên lạc. Đối với ngư dân Quảng Ngãi nói chung, Lý Sơn nói riêng, do làm nghề biển gặp nhiều bất trắc, nên thường dùng mật ngữ trong giao tiếp, để tránh những điều kiêng kỵ...
Ngư dân Lý Sơn thường dùng mật ngữ khi bắt đầu hải trình đánh bắt hải sản trên biển cho đến khi “tính tổn”, nghĩa là tính toán chi phí sau khi kết thúc phiên biển. Khi gặp ngư dân sau chuyến đánh bắt trở về, nhiều người hỏi: “Phiên biển này có được không?”. Câu trả lời của ngư dân là “vô lúa”, tức là được mùa cá, hoặc các từ như “kiếm ăn”, “bén”, “hốt ăn”, “cào thẳng bảng”, “có ăn”, đại ý là làm ăn được. Ngược lại, nếu nghe từ “đói meo”, “biển giã không thấy chấm nào”, “hô răng”, tức là làm ăn không được. Ngoài ra, ngư dân còn nói “ghe ca sĩ”, tức là ghe đánh bắt được cá, giống như ca sĩ đi đâu cũng được chào đón; “ghe kéo màn” là ghe làm ăn không được, đi đâu cũng “đói meo”.
Ngư dân Lý Sơn thu lượm cá sau phiên đánh bắt trên biển. Ảnh: PV
Ngư dân Lý Sơn thường dùng mật ngữ khi bắt đầu hải trình đánh bắt hải sản trên biển cho đến khi “tính tổn”, nghĩa là tính toán chi phí sau khi kết thúc phiên biển. Khi gặp ngư dân sau chuyến đánh bắt trở về, nhiều người hỏi: “Phiên biển này có được không?”. Câu trả lời của ngư dân là “vô lúa”, tức là được mùa cá, hoặc các từ như “kiếm ăn”, “bén”, “hốt ăn”, “cào thẳng bảng”, “có ăn”, đại ý là làm ăn được. Ngược lại, nếu nghe từ “đói meo”, “biển giã không thấy chấm nào”, “hô răng”, tức là làm ăn không được. Ngoài ra, ngư dân còn nói “ghe ca sĩ”, tức là ghe đánh bắt được cá, giống như ca sĩ đi đâu cũng được chào đón; “ghe kéo màn” là ghe làm ăn không được, đi đâu cũng “đói meo”.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)