Năm 2016, nghề làm bánh tráng phơi sương Trảng Bàng được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. Năm 2011, bánh tráng phơi sương Trảng Bàng được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam - Vietkings công nhận là một trong 100 món ăn đặc sản nổi tiếng của cả nước. Để nghề làm bánh tráng phơi sương đạt được những danh hiệu nêu trên là cả một quá trình dày công sáng tạo, giữ gìn và phát triển làng nghề của người dân xứ Trảng.
27 thg 7, 2022
Giữ lửa nghề làm bánh tráng phơi sương
Năm 2016, nghề làm bánh tráng phơi sương Trảng Bàng được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch (VH,TT&DL) công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia. Năm 2011, bánh tráng phơi sương Trảng Bàng được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam - Vietkings công nhận là một trong 100 món ăn đặc sản nổi tiếng của cả nước. Để nghề làm bánh tráng phơi sương đạt được những danh hiệu nêu trên là cả một quá trình dày công sáng tạo, giữ gìn và phát triển làng nghề của người dân xứ Trảng.
26 thg 7, 2022
Khám phá vẻ đẹp nhà thờ Hưng Nghĩa
Nam Định vốn được biết đến là nơi mà đạo Công giáo phát triển nhất tại Việt Nam. Từ lâu, nơi đây đã nổi tiếng với những công trình kiến trúc nhà thờ nổi tiếng, lâu đời với vẻ đẹp nguy nga, những công trình kiến trúc tôn giáo với vẻ đẹp đậm chất châu Âu. Chỉ cần dành một ngày khám phá Nam Định là bạn sẽ mang về thật nhiều bức ảnh "chất lừ" cũng những nhà thờ đẹp bậc nhất vùng đất này. Đến với nhà thờ giáo xứ Hưng Nghĩa du khách sẽ cảm thấy thích thú khi được chiêm ngưỡng một nhà thờ với lối thiết kế kín kẽ, nhiều chi tiết cầu kì, tinh xảo đậm chất Gothic.
Được xây dựng từ năm 1927, di chuyển về địa chỉ hiện nay vào năm 1943, khi đó nhà thờ được xây bằng gỗ lim và lợp nan ngói. Trải qua một thời gian, nhận thấy sự xuống cấp trầm trọng của nhà thờ, các giáo dân cùng cha xứ Giuse Phạm Khắc Thẩm cùng bàn bạc và thống nhất khởi công xây dựng lại nhà thờ vào ngày 22/8/2001. Mười một năm, với biết bao đóng góp về vật chất và cả mồ hôi công sức của bà con giáo dân, ngôi thánh đường trong mơ ước của bà con đã được chính thức khánh thành vào ngày 28/2/2012. Nhà thờ giáo xứ Hưng Nghĩa với chiều dài 76m, chiều rộng 33m, cao 24m và hai tháp chuông cao 60m là một công trình kiến trúc hoành tráng, bề thế, thể hiện được ý tưởng, tư duy và kiểu dáng kiến trúc hiện đại, nhưng vẫn có sự biến hoá hài hoà với các yếu tố không gian xung quanh. Gian điện trong cùng là nơi đặt bàn thờ Đức Chúa Jesu, bên trên có mái vòm hình cầu và những ô cửa kính được thiết kế khoa học, giúp không gian nhà thờ rộng hơn, thoáng hơn và đón được ánh sáng tự nhiên của mặt trời.
Được xây dựng từ năm 1927, di chuyển về địa chỉ hiện nay vào năm 1943, khi đó nhà thờ được xây bằng gỗ lim và lợp nan ngói. Trải qua một thời gian, nhận thấy sự xuống cấp trầm trọng của nhà thờ, các giáo dân cùng cha xứ Giuse Phạm Khắc Thẩm cùng bàn bạc và thống nhất khởi công xây dựng lại nhà thờ vào ngày 22/8/2001. Mười một năm, với biết bao đóng góp về vật chất và cả mồ hôi công sức của bà con giáo dân, ngôi thánh đường trong mơ ước của bà con đã được chính thức khánh thành vào ngày 28/2/2012. Nhà thờ giáo xứ Hưng Nghĩa với chiều dài 76m, chiều rộng 33m, cao 24m và hai tháp chuông cao 60m là một công trình kiến trúc hoành tráng, bề thế, thể hiện được ý tưởng, tư duy và kiểu dáng kiến trúc hiện đại, nhưng vẫn có sự biến hoá hài hoà với các yếu tố không gian xung quanh. Gian điện trong cùng là nơi đặt bàn thờ Đức Chúa Jesu, bên trên có mái vòm hình cầu và những ô cửa kính được thiết kế khoa học, giúp không gian nhà thờ rộng hơn, thoáng hơn và đón được ánh sáng tự nhiên của mặt trời.
Thánh đường đá trăm tuổi ở vựa lúa xứ Nghệ
Ngôi thánh đường dài 37m, rộng 14m với điểm cao nhất trên đỉnh tháp chuông là 28m, được xây dựng từ hàng vạn viên đá được lấy từ vùng núi Thanh Hóa.
Mùa vàng đẹp nao lòng nơi biên cương Cao Bằng
Du khách đến với Cao Bằng mùa này được đắm mình trên những cánh đồng lúa chín vàng, tạo nên vẻ đẹp non nước hữu tình và mang đậm bản sắc vùng cao đặc trưng, riêng có của vùng đất biên cương phía Bắc Tổ quốc.
Con đường muối ở miền Tây xứ Quảng
Ngày xưa, ở vùng cao, muối ăn rất khan hiếm. Muối ăn có giá rất đắt nên không phải ai cũng có tiền để mua. Muối mua được rất ít nên đồng bào miền núi cất giữ muối như của quý. Khi người Kinh ở đồng bằng mở lối thông thương, thì những hàng hóa thiết yếu như mắm, muối đưa lên vùng cao ngày càng nhiều.
Giao thương giữa đồng bằng và miền núi
Giao thương giữa đồng bằng và miền núi
Bên cạnh thương lái ở đồng bằng đến tận buôn làng để buôn bán, thì đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi cũng thường xuyên dùng voi, ngựa hoặc đi bộ đến đồng bằng hoặc vùng giáp ranh trao đổi thổ sản để lấy muối ăn và các hàng hóa khác. Thời kỳ chúa Nguyễn Đàng Trong đã chú trọng việc giao lưu kinh tế - văn hóa giữa người Kinh với các bộ tộc ở miền núi nhằm khai thác các nguồn lợi, mở rộng giao thương với bên ngoài, đúng như Nguyễn Hoàng đã nói: “Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối”.
Chuyện xưa ở làng Châu Sa
Ở phía bắc sông Trà Khúc có một ngôi làng mà ngày trước mang tên xứ Tiểu Giang, sau đổi thành xã Châu Sa, tổng Trung, huyện Bình Sơn, phủ Tư Nghĩa (nay là xã Tịnh Châu, TP.Quảng Ngãi). Mỗi con sông, ngọn núi, mỗi xóm nhỏ trên vùng đất này mang đậm dấu tích cổ xưa, trong đó có từ đường họ Võ.
Niềm tự hào của dòng họ Võ
Làng Châu Sa mang đậm dấu tích lịch sử, văn hóa của người Chăm như bàu Ấu, bàu Đề, Cổ Lũy, núi Chồi, thành cổ Châu Sa trong suốt 13 thế kỷ (thế kỷ II - XV). Cũng chính nơi đây, sau cuộc bình Chiêm mở đất của Vua Lê Thánh Tông năm 1471, nhiều dòng họ lớn (Lê, Nguyễn, Võ) từ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đã vào vùng đất Tiểu Giang lập nghiệp.
Niềm tự hào của dòng họ Võ
Làng Châu Sa mang đậm dấu tích lịch sử, văn hóa của người Chăm như bàu Ấu, bàu Đề, Cổ Lũy, núi Chồi, thành cổ Châu Sa trong suốt 13 thế kỷ (thế kỷ II - XV). Cũng chính nơi đây, sau cuộc bình Chiêm mở đất của Vua Lê Thánh Tông năm 1471, nhiều dòng họ lớn (Lê, Nguyễn, Võ) từ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đã vào vùng đất Tiểu Giang lập nghiệp.
21 thg 7, 2022
Cà da ếch quệt mắm cái
Cà da ếch quệt mắm cái ăn rất ngon, những ai đã từng thưởng thức đều nhớ mãi. Nhớ món cà da ếch quệt mắm cái là nhớ cả tình quê đong đầy.
Những quả cà da ếch có da bóng láng, ẩn hiện trong cành lá khiến trẻ thơ chơi quanh sân đưa tay chỉ trỏ. Có đứa cất giọng: "Đố bay sao gọi là cà da ếch?". Đứa nọ ra vẻ hiểu biết: "Vì gần cuống xanh lốm đốm và phía dưới quả cà có màu trắng giống da ếch ở lưng và bụng, nên gọi là cà da ếch chứ sao!". Cả bọn im lặng ngầm biểu thị thái độ đồng tình. Mẹ tôi từ ngoài đồng về nhà ngồi săm soi bên gốc cà và chọn hái quả lớn bằng cái chén mang vào chế biến thức ăn trong bữa cơm gia đình. Loại trái dân dã này qua đôi tay khéo léo của mẹ trở thành những món ăn đậm đà hương vị, nào là xào cùng lá lốt, nộm cà, kho với cá đồng...
Những quả cà da ếch có da bóng láng, ẩn hiện trong cành lá khiến trẻ thơ chơi quanh sân đưa tay chỉ trỏ. Có đứa cất giọng: "Đố bay sao gọi là cà da ếch?". Đứa nọ ra vẻ hiểu biết: "Vì gần cuống xanh lốm đốm và phía dưới quả cà có màu trắng giống da ếch ở lưng và bụng, nên gọi là cà da ếch chứ sao!". Cả bọn im lặng ngầm biểu thị thái độ đồng tình. Mẹ tôi từ ngoài đồng về nhà ngồi săm soi bên gốc cà và chọn hái quả lớn bằng cái chén mang vào chế biến thức ăn trong bữa cơm gia đình. Loại trái dân dã này qua đôi tay khéo léo của mẹ trở thành những món ăn đậm đà hương vị, nào là xào cùng lá lốt, nộm cà, kho với cá đồng...
Cá đục nướng trui
Người làng chài quê tôi không chỉ sành ăn cá mà còn làm “thơ” về cá nghe cũng vui. Mọi người vẫn thường nghêu ngao: "Nướng trui cá đục ngon ghê/ Chấm với muối ớt thì hết chê chỗ nào". Cá đục nướng trui là món ăn khoái khẩu của nhiều người.
Cá đục có quanh năm. Riêng mùa hè, vùng biển gần bờ nước ấm và trong, phiêu sinh vật phong phú, dễ bắt mồi, nên cá đục nhiều hơn và ngon hơn các mùa khác. Cá đục hay dính lưới bén, lưới xâu. Cư dân làng chài có thú ra gành ngồi câu cá đục. Cá đục mình thon dài, hao hao giống cá bống nước ngọt, nên còn được gọi là cá bống biển. Khi trưởng thành, cá đục dài gần bằng gang tay người lớn.
Thịt cá đục săn chắc, ngọt và rất thơm nên thường được dùng làm món gỏi, ngon không kém so với gỏi cá trích, cá chuồn, cá lao... Các bà nội trợ khi thấy cá đục là nghĩ ngay đến món kho rim với nghệ kèm sả ớt để ăn với cơm. Riêng món cá đục tươi đem nướng trui trên lửa than thì ngon phải biết!
Vào mỗi buổi chiều hè, ngư dân hành nghề lưới thúng, xuồng câu, lưới xâu, lưới bén đánh bắt trong vùng cửa biển. Họ thong dong, bồng bềnh độ hai tiếng đồng hồ trên biển thì vô bờ, thả tay lưới lên bãi. Người dân xúm lại gỡ cá. Mạnh ai nấy gỡ, để riêng từng nhúm cá chừng vài chục con. Gỡ xong, họ hỏi chủ lưới nhúm cá này bao nhiêu tiền. “Cứ lấy đi. Ngang qua nhà đưa cho vợ tui vài chục nghìn là được mà”, chủ lưới nói. Đó là giá “tình làng nghĩa xóm”, chứ còn giá ở chợ cũng phải trên 200 nghìn đồng một ký cá đục. Mua cá thời điểm này, con nào con nấy tươi xanh, nhiều con còn quẫy đành đạch.
Về làng chài ở Sa Huỳnh, phường Phổ Thạnh (TX.Đức Phổ) lúc chiều tà, nếu bạn thấy những bếp than trước hiên nhà sát biển, bếp than dưới gốc dừa, gốc dương, đó là người dân đang nướng cá, nhiều nhất là nướng cá đục. Cách nướng cá dân dã lắm, nướng trui mà. Cá không cạo nhớt, không đánh vảy, không mổ bụng, không móc mang, cũng không tẩm ướp gia vị. Cứ để nguyên con cá xếp lên vỉ, nướng trên bếp than hồng, trở cá cho đều. Chờ khi bộ vảy cá cháy sém, mùi thơm khó cưỡng thì cá đã chín ở mức đạt “chuẩn”. “Chuẩn” ở đây có nghĩa là khi cầm con cá lên, lột nhẹ lớp vảy, lộ ra từng mảng thịt trắng phau, thơm nức mũi.
Các món nướng thường ăn với muối ớt, nhất là cá nướng. Bởi vậy, phải làm chén muối ớt thật ngon. Giã muối sống hoặc muối hầm với ớt xanh, pha với ớt đỏ, ớt vàng, trộn tí bột ngọt nữa là đã có chén muối mặn mà.
Gỡ từng miếng thịt cá đục săn chắc, chấm với muối ớt rồi thưởng thức. Ôi thôi, ngon không gì sánh bằng. Cá đục nướng trui ngon ngọt, béo bùi, thơm dịu... ăn một lần nhớ mãi.
Cá đục có quanh năm. Riêng mùa hè, vùng biển gần bờ nước ấm và trong, phiêu sinh vật phong phú, dễ bắt mồi, nên cá đục nhiều hơn và ngon hơn các mùa khác. Cá đục hay dính lưới bén, lưới xâu. Cư dân làng chài có thú ra gành ngồi câu cá đục. Cá đục mình thon dài, hao hao giống cá bống nước ngọt, nên còn được gọi là cá bống biển. Khi trưởng thành, cá đục dài gần bằng gang tay người lớn.
Món cá đục nướng trui. Ảnh: Cao Duyên
Vào mỗi buổi chiều hè, ngư dân hành nghề lưới thúng, xuồng câu, lưới xâu, lưới bén đánh bắt trong vùng cửa biển. Họ thong dong, bồng bềnh độ hai tiếng đồng hồ trên biển thì vô bờ, thả tay lưới lên bãi. Người dân xúm lại gỡ cá. Mạnh ai nấy gỡ, để riêng từng nhúm cá chừng vài chục con. Gỡ xong, họ hỏi chủ lưới nhúm cá này bao nhiêu tiền. “Cứ lấy đi. Ngang qua nhà đưa cho vợ tui vài chục nghìn là được mà”, chủ lưới nói. Đó là giá “tình làng nghĩa xóm”, chứ còn giá ở chợ cũng phải trên 200 nghìn đồng một ký cá đục. Mua cá thời điểm này, con nào con nấy tươi xanh, nhiều con còn quẫy đành đạch.
Về làng chài ở Sa Huỳnh, phường Phổ Thạnh (TX.Đức Phổ) lúc chiều tà, nếu bạn thấy những bếp than trước hiên nhà sát biển, bếp than dưới gốc dừa, gốc dương, đó là người dân đang nướng cá, nhiều nhất là nướng cá đục. Cách nướng cá dân dã lắm, nướng trui mà. Cá không cạo nhớt, không đánh vảy, không mổ bụng, không móc mang, cũng không tẩm ướp gia vị. Cứ để nguyên con cá xếp lên vỉ, nướng trên bếp than hồng, trở cá cho đều. Chờ khi bộ vảy cá cháy sém, mùi thơm khó cưỡng thì cá đã chín ở mức đạt “chuẩn”. “Chuẩn” ở đây có nghĩa là khi cầm con cá lên, lột nhẹ lớp vảy, lộ ra từng mảng thịt trắng phau, thơm nức mũi.
Các món nướng thường ăn với muối ớt, nhất là cá nướng. Bởi vậy, phải làm chén muối ớt thật ngon. Giã muối sống hoặc muối hầm với ớt xanh, pha với ớt đỏ, ớt vàng, trộn tí bột ngọt nữa là đã có chén muối mặn mà.
Gỡ từng miếng thịt cá đục săn chắc, chấm với muối ớt rồi thưởng thức. Ôi thôi, ngon không gì sánh bằng. Cá đục nướng trui ngon ngọt, béo bùi, thơm dịu... ăn một lần nhớ mãi.
TRẦN CAO DUYÊN
Món ngon từ biển được chế biến cầu kỳ, ăn một lần nhớ mãi
Mực ống sau khi sơ chế được phơi nắng ở nền nhiệt từ 32-36 độ C, liên tục trong 10 tiếng đồng hồ, nên gọi là mực một nắng. Mực một nắng là đặc sản làm "xiêu lòng" du khách mỗi khi về Hà Tĩnh.
Cứ từ tháng 5 đến tháng 8 hằng năm, nhiều làng biển ở Hà Tĩnh lại tất bật chuẩn bị làm món mực một nắng. Đây là một trong những món ăn được nhiều du khách lựa chọn mỗi khi về các vùng biển của địa phương này.
Theo những hộ dân làm nghề mực một nắng ở xã Cẩm Nhượng (huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh), để chế biến được mực một nắng đạt chất lượng, từ sáng sớm, người dân phải ra chợ Cồn Gò (xã Cẩm Nhượng) để chọn những con mực ống tươi ngon và to, hoặc đặt hàng các thuyền để "săn" được nguồn nguyên liệu tươi.
Cứ từ tháng 5 đến tháng 8 hằng năm, nhiều làng biển ở Hà Tĩnh lại tất bật chuẩn bị làm món mực một nắng. Đây là một trong những món ăn được nhiều du khách lựa chọn mỗi khi về các vùng biển của địa phương này.
Theo những hộ dân làm nghề mực một nắng ở xã Cẩm Nhượng (huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh), để chế biến được mực một nắng đạt chất lượng, từ sáng sớm, người dân phải ra chợ Cồn Gò (xã Cẩm Nhượng) để chọn những con mực ống tươi ngon và to, hoặc đặt hàng các thuyền để "săn" được nguồn nguyên liệu tươi.
Cắm trại, săn mây ở miền núi Khánh Hoà
Huyện miền núi phía tây Khánh Sơn có những nét thu hút khác biệt so với những hòn đảo và bờ biển ở phía đông.
Du lịch Khánh Hòa nổi danh nhờ những bãi biển, vịnh, đảo đẹp. Song nếu men theo rìa khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà từ thành phố Cam Ranh, theo tỉnh lộ 9, bạn sẽ bắt gặp một không gian khác biệt ở huyện miền núi Khánh Sơn.
Khánh Sơn là quê hương của người dân tộc Raglai với những nét văn hóa đậm chất Tây Nguyên như cồng, chiêng, đàn Chapi. Với độ cao khoảng 800 m so với mặt nước biển, Khánh Sơn có khí hậu mát mẻ, dễ chịu. Điểm nhấn tạo nên nét thu hút của nơi đây là sự hoang sơ trên những cung đường đèo, thác nước và mây trời.
Du lịch Khánh Hòa nổi danh nhờ những bãi biển, vịnh, đảo đẹp. Song nếu men theo rìa khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà từ thành phố Cam Ranh, theo tỉnh lộ 9, bạn sẽ bắt gặp một không gian khác biệt ở huyện miền núi Khánh Sơn.
Khánh Sơn là quê hương của người dân tộc Raglai với những nét văn hóa đậm chất Tây Nguyên như cồng, chiêng, đàn Chapi. Với độ cao khoảng 800 m so với mặt nước biển, Khánh Sơn có khí hậu mát mẻ, dễ chịu. Điểm nhấn tạo nên nét thu hút của nơi đây là sự hoang sơ trên những cung đường đèo, thác nước và mây trời.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)