Tương truyền, các ngôi miếu Bà là những ngôi thờ tự đầu tiên ở thôn, làng từ lúc khai thiên lập địa, cho nên lịch sử hình thành của miếu cũng từ rất lâu đời. 5 vị phúc thần Ngũ Hành tại đây được tôn thờ trong dân gian tin rằng các Bà có những quyền năng phù hộ độ trì cho chúng sinh đối với nhiều nghành nghề liên quan đến đất đai, củi lửa, kim khí, nước nôi và cây,gỗ…
Tại Miếu Bà Ngũ hành Tân Nhơn, bài vị thờ cúng được người dân đúc bằng xi măng, mỗi vị phúc thần đều có màu sơn riêng biệt từ thân tượng cho đến y áo, khăn choàng khoác ngoài…
Dịp lễ Cầu an này, người dân cúng Bà có thể đặt Lễ với Miếu hoặc Lễ tuỳ theo tâm của mỗi người. Lễ bao gồm lễ mặn hoặc lễ chay, cỗ cúng cũng vì thế mà khác nhau. Lễ chay thường đi kèm đồ cúng sẽ là hương, hoa tươi, quả chín, phẩm oản, xôi chè còn Lễ mặn thì đồ cúng gồm gà, giò, trầu cau, rượu… Trước vài ngày diễn ra lễ hội, bà con thường chung tay, góp sức để lau chùi, sơn sửa, thay áo, mũ mới cho các pho tượng Bà.
Tại Miếu Bà Ngũ hành Tân Nhơn, bài vị thờ cúng được người dân đúc bằng xi măng, mỗi vị phúc thần đều có màu sơn riêng biệt từ thân tượng cho đến y áo, khăn choàng khoác ngoài…
Dịp lễ Cầu an này, người dân cúng Bà có thể đặt Lễ với Miếu hoặc Lễ tuỳ theo tâm của mỗi người. Lễ bao gồm lễ mặn hoặc lễ chay, cỗ cúng cũng vì thế mà khác nhau. Lễ chay thường đi kèm đồ cúng sẽ là hương, hoa tươi, quả chín, phẩm oản, xôi chè còn Lễ mặn thì đồ cúng gồm gà, giò, trầu cau, rượu… Trước vài ngày diễn ra lễ hội, bà con thường chung tay, góp sức để lau chùi, sơn sửa, thay áo, mũ mới cho các pho tượng Bà.
Miếu Bà Ngũ hành Tân Nhơn thờ kim, mộc, thủy, hỏa, thổ luôn vận động, chuyển dịch. Theo thuyết âm dương ngũ hành, 5 yếu tố trên thuộc âm nên trong dân gian gọi chung là Bà.
Các vị cao niên thắp nhang khai lễ.
Các sản vật, cống phẩm mà người dân dâng lên Bà.
Các Miếu khác đến giao lưu cúng bái tại Miếu Bà Ngũ hành Tân Nhơn.
Vị cao niên đánh trống báo cáo vật phẩm của người dân dâng lên Miếu Bà.
Người dân vào thắp nhang trong Miếu Bà Tân Nhơn.
Người dân dâng mâm vàng lên Miếu Bà để múa bóng rỗi.
Ngoài hát bóng rỗi, để góp phần “làm vui” cho Bà còn có phần hội hát Địa Nàng. Với lối diễn vừa theo bài bản vừa ứng tác; hát, nói, kể kết hợp với nhạc và vũ đạo tuồng, các bài hát chắt lọc từ tuồng và các làn điệu dân ca quen thuộc, ứng đối giữa Địa và Nàng theo phong cách vui nhộn, dẫn dắt câu chuyện tài tình khiến cho cốt truyện đơn giản trở nên thú vị. Sau phần hát Địa nàng chính sẽ chuyển sang đối đáp bằng những câu vè, dân ca, bằng thơ lục bát, song thất, đôi khi dùng cả tục ngữ, ca dao. Riêng về lời văn đối thoại, thì gần như đều là ngôn ngữ bình dân thông thường của người dân quê.
Địa và Nàng chỉ diễn trên một manh chiếu trước điện Bà, xung quanh là dân làng không phân thứ bậc, Địa bộc đùa giỡn với tiên nữ, châm biếm cả chư tiên, chư phật. Địa còn mang ý nghĩa đại diện cho khát vọng thịnh vượng, bình đẳng, có tính nhân bản của dân làng.
Đặt các sản vật lên đầu cô bóng rỗi.
Các nghệ nhân hát Địa nàng mua vui cho miếu bà để cầu được mưa thuận gió hòa.
Hát Địa nàng chỉ có hai người một người thủ vai ông Địa và một người thủ vai Nàng tiên.
Các vị cao niên trong làng dâng tiền ủng hộ ông Địa.
Cái độc đáo của Địa Nàng là ứng diễn, tự chế ra lời diễn chớ không có kịch bản chính thức.
Múa bóng rỗi để mua vui cho Miếu Bà.
Đưa mâm vàng để cô bóng múa trước khi dâng lên Miếu Bà.
Nghệ thuật hát tuồng cổ ba ông Phúc Lộc Thọ.
Rất nhiều vở tuồng cổ được trình diễn để mua vui cho Miếu Bà.
Các vở tuồng cổ được dàn dựng công phu và kĩ lưỡng.
Lễ Cầu an Miếu Bà Ngũ hành Tân Nhơn được duy trì từ năm này qua năm khác, thể hiện truyền thống tri ân, uống nước nhớ nguồn của con người đối với các vi thần linh đối với tổ tiên và những người đã khuất. Ngày nay tục cúng vía Bà đã trở thành một hoạt động văn hóa không thể thiếu tại địa phương này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét