
Huyền thoại trong tâm thức dân gian
Ngồi trước mặt tôi không chỉ là một người dường như của
“muôn năm cũ” còn lại mà là nhân chứng, nếu có thể nói như vậy, của một
thiên tình sử lắm vẻ vang mà cũng nhiều đau đớn từ tận 700 năm trước.
“Khi tôi lên năm hay sáu tuổi thì ông cố tôi đã bảy, tám chục tuổi gì đó. Ông bảo đã nghe ông bà của ông kể lại rằng ngôi mộ ngoài mé biển, nay ở gần đồn biên phòng Nam Ô, là ngôi mộ của vị tướng dưới quyền Trần Khắc Chung vào Nam cứu công chúa Huyền Trân năm 1307. Công chúa Huyền Trân được gả cho Chế Mân, Đại Việt được thêm châu Ô và châu Lý. Nhưng ngay năm sau thì Chế Mân chết. Theo tục của người Chăm, chồng chết thì vợ phải chết theo trên giàn hỏa. Vua Trần Anh Tông nghe vậy khóc thương con, Trần Khắc Chung mới xin đi cứu...”.
Cứ vậy, ông kể thật dài, chẳng biết đâu là hư là
thực... Rằng Trần Khắc Chung nói với người Chiêm cho công chúa ra bờ
biển để chiêu hồn chồng về rồi cùng lên giàn hỏa; rằng Trần Khắc Chung
có hai vị tướng là “tiền quân oai” và “hậu quân oai” phục ở bờ biển.
Trong cuộc chạy bộ từ Đồ Bàn ra tới chân núi Hải Vân để xuống thuyền,
nhiều người đã hi sinh để chặn sự truy đuổi của quân Chiêm, vị hậu quân
oai chết ở sông Cẩm Lệ.
Trần Khắc Chung đưa Huyền Trân chạy ra đến Nam Ô, lúc
này tháng 10, gió bấc thổi nên thuyền không thể ra khơi được, công chúa
đã ở lại đất này cho đến mùa gió nam thổi. Khi cả đoàn lên thuyền thì
một vị tướng đã ở lại. Ông là người đầu tiên ở lại đất Chiêm Thành và
chết trên đất Chiêm Thành. Sau vào thời Chế Bồng Nga, người Chiêm lấy
lại đất này, phá bia mộ ông nên ông thành người vô danh.
Người Việt đến sau tôn ông là tiền hiền của vùng đất
này và hằng năm cúng giỗ vào ngày 24-6 âm lịch, suốt 700 năm qua không
bỏ sót năm nào. Nếu thật vậy thì vị tiền hiền này không chỉ là tiền hiền
của làng Nam Ô mà còn là tiền hiền của cả xứ Đàng Trong nữa.
Một câu chuyện nhuốm màu huyền thoại, vẫn “ám” trong
tâm thức của mỗi người Việt một nỗi u hoài bi tráng của lịch sử, nhưng
lại không có một mảy may làm bằng. Đến như Thánh Gióng còn dấu vết vó
ngựa là những chiếc ao, đến như Lê Lợi còn có hồ Gươm để làm bằng về
thanh gươm thần Kim Quy trao để giữ nước, vậy mà những bước chân Huyền
Trân ngàn dặm, rất thật, in đậm trong tâm trí người Việt “cái tình chi”
(*) mà 700 năm rồi vẫn không nguôi một nỗi bâng khuâng, lại không còn
một chút dấu vết để làm tin.
Vì thế chuyện xưa như thật như hư, nhỡ như ai vui mà chép lại, chuyện nhỏ hóa to, chuyện không hóa có thì sao?

Nam Ô - một trạm dịch quốc gia
Vì thế câu chuyện của cụ Sáu Hào và ngôi mộ bằng ximăng
thật to cứ hư hư thực thực mà án ngữ vào cái doi đất nhoài ra phía biển
này. Đây là điểm cuối cùng bằng đường bộ từ Nam ra Bắc trước khi vượt
Hải Vân. Chừng trăm năm trước, khi phương tiện đi lại vẫn còn lấy đôi
chân làm chính, thì Hải Vân là một chướng ngại lớn trên đường đi.
Ngoại trừ đường biển cần phải có thuyền to, đội chèo
đông, đến mùa gió thuận mới có thể đi được thì chỉ còn cách đi đò dọc
theo các đầm phá ven biển. Từ Cửa Việt (Quảng Trị) theo phá Tam Giang có
thể vào đến Lăng Cô. Đi thuyền hoặc đi bộ qua Hải Vân lại lên đò dọc ở
Nam Ô vào sông Hàn, theo sông Cổ Cò vào đến Hội An... Các trạm quốc gia
mà Lê Quý Đôn mô tả trong Phủ biên tạp lục đều nằm dọc con đường thủy
này.
Dù đi đường nào thì Hải Vân vẫn là một chướng ngại lớn
trên hành trình ra Bắc hoặc vào Nam. Vậy mới có câu “Đi bộ thì sợ Hải
Vân, đi thuyền thì sợ sóng thần Hang Dơi”. (Hang Dơi là một ghềnh đá
dưới chân Hải Vân, nơi giao nhau của các dòng nước và gió bắc nam).
Dù đi vào hay đi ra, bằng đường biển hay đường bộ thì
Bắc và Nam Hải Vân đều cần một trạm nghỉ, do vị trí yết hầu và độc đạo
nên suốt hàng ngàn năm qua trạm nghỉ này không thay đổi. Ở Nam Hải Vân
chính là Nam Ô. Như vậy, từ thời vùng đất này còn thuộc vương quốc
Champa hay về sau thuộc Đại Việt, Nam Ô có đủ yếu tố địa lý để con người
phải dừng lại và cư trú đông đúc ở đó.
Đi một vòng quanh Nam Ô, chúng tôi được người dân địa
phương kể cho nghe bao chuyện lý thú và cổ xưa nhuốm màu huyền thoại,
cũng như tận mắt chứng kiến bao di tích đang chìm dần vào hoang phế.
Nhiều ngôi đình, miếu thờ xưa nằm lẫn dưới những tán cổ thụ của rú cấm,
một khu núi thiêng không ai được xâm phạm của làng Nam Ô, nhờ vậy mà ở
đây vẫn giữ được những cánh rừng cổ thụ tự nhiên, điều vô cùng hiếm với
những cánh rừng gần khu dân cư sau nhiều năm dài thiếu chất đốt.

Vết tích Champa
Trước đồn biên phòng Nam Ô là một sân bóng đá, giữa sân
vẫn còn dấu vết của một ngôi tháp Chăm cổ với những viên gạch vồ khổ
lớn, đặc trưng của các công trình kiến trúc Champa. Trong hồ sơ của Bảo
tàng điêu khắc Champa có nhiều bức tượng mà các nhà nghiên cứu Pháp đã
đem từ Nam Ô về.
Từ Nam Ô lên Trường Định có ít nhất ba nơi được gọi là
miếu Bà Giàng và đều còn dấu vết kiến trúc Champa cổ, rất nhiều mả vôi
mà dân làng gọi là mả Hời. Ngay giữa làng Nam Ô, giữa những lối đi ngoằn
ngoèo của một làng chài điển hình miền Trung là hàng chục cái giếng
Chăm hình vuông nước quanh năm trong vắt. Những viên gạch Chăm vương vãi
khắp nơi.
Đây hẳn là một điểm cư trú kéo dài của cả những người
Sa Huỳnh cổ đại cho đến Champa và Sơ Việt rồi Việt hiện nay. Chỉ tiếc sự
khảo sát, khảo cổ của giới nghiên cứu ở đây chưa nhiều.
Có nghĩa rằng Nam Ô thật sự là một làng Chăm. Năm 1471,
khi Lê Thánh Tông đi bình Chiêm ngang đây bắt được tướng Chiêm là Bồng
Nga Sa là viên lại giữ cửa sông Cu Đê, bên làng Nam Ô. Và đến năm 1793,
khi John Barrow vẽ bức tranh Một buổi sinh hoạt tín ngưỡng của người dân
một làng bắc vịnh Touran, bắc vịnh Đà Nẵng chỉ có một làng là Nam Ô thì
chúng ta hiểu người Chăm đã ở lại đây, đã uống nước giếng vuông của họ
đến tận khi Gia Long lên ngôi.
So với giọng nói người Quảng Nam, Đà Nẵng thì người Nam
Ô giữ âm sắc của cư dân miền biển đặc trưng bao đời của họ. Trong ngôi
miếu thờ cá ông - một phong tục của người Chăm xưa - ở làng Nam Ô vẫn
lưu giữ hàng chục bộ xương cá ông đựng trong những chiếc chum lớn. Đây
có lẽ là một trong những nơi còn lưu giữ xương cá ông nhiều nhất.
Và thành khu du lịch Nam Ô
Ngôi mộ vị tiền hiền làng Nam Ô được người dân Nam Ô
chăm sóc rất chu đáo, trải qua nhiều trăm năm đã hư hại nhiều nên gần
đây được xây mới, bia ghi rõ bằng chữ quốc ngữ “Tiền hiền chi mộ”. Khó
mà biết câu chuyện này hư thực thế nào, trừ khi các nhà khảo cổ vào cuộc
để tìm câu trả lời. Ngôi mộ nếu cho con số 700 năm thì đó có lẽ là một
sự kiện vô cùng lớn không chỉ của giới sử học mà còn là một món nợ được
trả đối với cuộc “ngàn dặm ra đi” của một bóng hồng mờ ảo trong lịch sử.
Biết đâu những lời cụ Sáu Hào nói là thật. Vị trí của
làng Nam Ô xứng đáng để các nhà khảo cổ bỏ công đào bới truy tìm dấu vết
người xưa. Chắc chắn dưới lòng đất, dưới những đáy giếng vuông sẽ có
rất nhiều lời đáp về những dòng người ra Bắc vào Nam suốt nhiều ngàn năm
qua, sẽ có nhiều câu trả lời nằm trong các tầng văn hóa chồng lên nhau
trong lòng đất Nam Ô.
Mọi chuyện trở nên cấp bách khi làng Nam Ô đã được quy
hoạch thành một khu du lịch lớn, dự kiến đầu năm 2012 Tập đoàn Trung
Thủy (nhà đầu tư tiền thân là doanh nghiệp mỹ nghệ Miss Áo Dài) sẽ khởi
công khu du lịch nghỉ dưỡng Nam Ô tại phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên
Chiểu (TP Đà Nẵng). Khu du lịch có diện tích 36,5ha bao gồm 57 căn biệt
thự hướng biển cao cấp, khách sạn 5 sao, khu hội nghị quốc tế và vui
chơi giải trí... với số vốn đầu tư lên đến 3.300 tỉ đồng.
Theo bản vẽ của nhà đầu tư thì núi Nam Ô với rừng cây
nguyên sinh mà người dân Nam Ô gọi là rú cấm sẽ phủ kín những căn biệt
thự trên nền cỏ. Và nơi có ngôi mộ vị tiền hiền mà dân bản địa tương
truyền 700 năm tuổi ấy sẽ là một nhà hàng, bar rượu nhìn ra biển khơi và
ngọn Hải Vân hùng vĩ. Hình như chưa ai để ý đến ngôi mộ đặc biệt ấy và
ngôi làng dưới chân núi Hải Vân in dấu chân người ra Bắc vào Nam hàng
ngàn năm qua này!
HỒ TRUNG TÚ(Tuổi trẻ cuối tuần - http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Tuoi-tre-cuoi-tuan/435976/Nam-O---huyen-su-sap-mat.html)
__________
(*) Bài ca Huế điệu nam bình nói về cuộc ra đi của công chúa Huyền Trân về làm dâu đất Chiêm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét