31 thg 10, 2013

Phước Minh Cung ở Trà Vinh

Phước Minh Cung tọa lạc tại số 44 đường Điện Biên Phủ (thuộc phường 2, thành phố Trà Vinh), con đường chính lúc nào cũng nườm nượp xe cộ qua lại, nhưng chỉ cần bước vào bên trong chánh điện, du khách sẽ cảm nhận một không gian trầm lắng, u nhàn.

Bia di tích lịch sử cấp quốc gia

Phước Minh Cung là tên chữ còn tên dân gian thường gọi chùa Ông Quan Thánh vì thờ Quan Công.

Quan Công tên thật là Quan Vũ, tự Quan Vân Trường, thường được gọi là Quan Thánh Đế Quân, Quan Đế, Hán Vũ Đế, Xích Đế. Quan Công sinh năm 162 ở tỉnh Sơn Tây, Trung Hoa. Ông mất năm 219. Quan Công đã cùng với Lưu Bị và Trương Phi kết nghĩa anh em tại vườn đào. Quan Công là người hội đủ các đức tính trung dũng, nghĩa tình độ lượng và công minh chính trực, là nhân vật nổi tiếng thời Tam Quốc hậu Hán. Chính vì vậy mà khi ông qua đời người ta đã tôn thờ ông như một vị thánh.

Ổi Đông Dư ngọt ngon phù sa sông Hồng

Nói đến Bát Tràng, người ta thường nói đến thương hiệu gốm tồn tại từ bao đời nay, nhưng ít ai biết bên cạnh làng gốm truyền thống còn có thứ sản vật quý không đâu sánh bằng, đó là trái ổi Đông Dư.

Những trái ổi găng thơm ngon trong nắng - Ảnh: P.T.T.

Có dịp đi ven đê sông Hồng, bạn sẽ được chiêm ngưỡng sự xanh tốt của những cây ổi được trồng bằng đất phù sa sông Hồng. Ở trong làng nhà nào cũng có một vườn ổi, ít thì 5-10 cây, nhiều thì có tới vài chục cây.

Về Sóc Trăng ăn bánh nắn lá dừa nước

Cũng như những miền quê khác ở Tây Nam bộ, đất Sóc Trăng chằng chịt kênh rạch dọc ngang; ven bờ sông rạch, lá dừa nước mọc ken dày tạo nên một màu xanh ngút tầm mắt. Mọc chen trong các đám lá dừa nước ngoài các loại cây thân gỗ như bần, vẹt, quao, dái ngựa… còn có những loài dây leo như cóc kèn, dây choại… đặc biệt là dây mơ rừng.

Bánh nắn trên lá dừa nước. 

Có lẽ ngay từ những ngày đầu khai mở vùng đất mới, người miền quê đã biết tận dụng những thứ có sẵn để chế biến các món ăn chơi, vừa ngon miệng, vừa tăng thêm dư vị cho cuộc sống hàng ngày. Người ta đốn lá dừa nước, hái những lá mơ mọc hoang ấy về nhà để làm một thứ bánh đơn giản nhưng rất độc đáo, gọi là bánh nắn lá dừa nước.


Ngọt ngào hương kẹo Sìu Châu

Có một món quà quê mà khiến người ta phải thòm thèm mãi mỗi khi nhắc tới, thứ kẹo do chính những người dân Việt làm nên từ những nguyên liệu sẵn có của vùng châu thổ sông Hồng nhưng lại “khoác” một cái tên rất Hoa: kẹo Sìu Châu.

Nghe đến kẹo Sìu Châu, không ít người tưởng rằng đây là một sản phẩm do người Hoa Kiều làm ra. Điều này cũng xuất phát từ một lý do, đó là từ xa xưa, những người Hoa sống trên đất ta thường nổi tiếng vì làm ra nhiều món ăn ngon với những cái tên độc đáo.

Kẹo Sìu Châu vốn là đặc sản nổi tiếng của đất Thành Nam, là một thứ kẹo lạc, vừng hoặc kẹo lạc pha vừng. Cái tên kẹo Sìu Châu có từ rất lâu đời và gắn liền với một cửa hàng kẹo ngon có tiếng của Nam Định. Cửa hàng đó được đặt ở phía trước đền Triều Châu – một ngôi đền cổ của những người đồng hương thuộc huyện Triều Châu, tỉnh Phúc kiến, Trung Quốc sang sinh cơ lập nghiệp ở đất Sơn Nam hạ, ngay gần bến Ngự sông Vị Hoàng (con sông lấp rất nổi tiếng trong thơ Tú Xương khi xưa). Vì không có tên hiệu nên nhân dân quanh vùng thường gọi là hiệu kẹo ngon ở trước cửa đền Triều Châu, lâu dần người ta chọn cách gọi giản tiện hơn là kẹo Triều Châu, rồi kẹo Sìu và trở thành cái tên kẹo Sìu Châu như ngày nay.

Kẹo Sìu Châu 

Chuyện thú vị về kẹo Cu Đơ

Câu chuyện thú vị về sự tích kẹo Cu Đơ, một đặc sản của Hà Tĩnh, được tái hiện sinh động qua cuộc trò chuyện giữa PV báo Tiền Phong và ông Nguyễn Trường Phiệt (khối 3, phường Quang Trung, TP Vinh), người nói là một thành viên trong nhóm đặt tên cho kẹo lạc Cu Đơ cách đây hơn 60 năm.

Cu Đơ Hà Tĩnh chính hiệu được sản xuất tại lò kẹo phường Đại Nài

“Từ trước lại nay, có nhiều bài báo viết về xuất xứ kẹo Cu Đơ. Nhưng xem ra, tất cả đang ở dạng phỏng đoán, suy luận, chưa đúng sự thật!”, ông Nguyễn Trường Phiệt nói.


28 thg 10, 2013

Cay nồng món ốc Nam Giao

Nếu chỉ có một ngày ở Huế, có lẽ du khách sẽ phân vân khi nghĩ nên ăn gì? Không phải vì Huế có ít đồ ăn mà là vì nơi đây có quá nhiều thứ để lựa chọn. Bước ra phố, tạt vỉa hè, chui vào hẻm… đều gặp quán ăn. Tới Huế, dĩ nhiên không phải chỉ để ăn. Nhưng những ai chưa nếm thử ốc Huế có đủ các vị mặn, ngọt, chua, cay, nồng... cũng đáng tiếc như tới Hà Nội mà chưa ăn phở vậy.

Ốc bươu luộc. 

Hầu hết các món ăn ở Huế đều có vị cay. Nhưng cay đến... điếc tai mà vẫn mê thì phải nói đến ốc Nam Giao với bát nước chấm đỏ rực.


Những cây xoài ở chùa Đá Trắng

Nằm bên cạnh QL1A, chùa Đá Trắng (ở xã An Dân, H.Tuy An, Phú Yên) ngày nay vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện vừa mang tính lịch sử, lại vừa nhuốm màu tâm linh.

Xung quanh chùa Đá Trắng là những cây xoài to lớn - Ảnh: Lê Xuân Thọ 

Năm 1797, hòa thượng Luật Truyền, một nhà sư theo dòng Lâm Tế thiền tông, đã khởi xướng xây dựng ngôi Bạch thạch Từ Quang tự trên núi Bạch Thạch. Đại đức Thích Chúc Thuận, người được trao nhiệm vụ trông coi ngôi cổ tự này, cho hay: “Do được xây trên gò đá trắng, nên dân trong vùng hay gọi là chùa Đá Trắng, dù rằng bây giờ tên chùa là Từ Quang - Đá Trắng. Năm 1997, chùa được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia”.

Ông Núi linh thiêng

Dân gian lưu truyền rằng người sáng lập ra chùa Linh Phong tại núi Bà (ở thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, H.Phù Cát, Bình Định) là ông Núi, một tu sĩ rất bí ẩn.

Tháp mộ ông Núi - Ảnh: Hoàng Trọng 

Bậc chân tu

Người dân Bình Định quen gọi chùa Linh Phong là chùa Ông Núi. Những dấu tích về ông Núi ngày nay chỉ còn lại ngôi mộ tháp và hang Tổ ở sau chùa Linh Phong. Hang Tổ nằm sát mép suối, đá tự nhiên che kín cả 3 mặt như một ngôi nhà. Tương truyền rằng đây chính là hang đá mà ngày xưa ông Núi từng ở, từng ngồi niệm kinh tụng Phật. Phật tử đã tạo dựng tượng ông Núi và các vị Phật để thờ tại chùa. Theo ông Võ Hợi (67 tuổi, ở thôn Phương Phi), người được giao việc trông coi hang Tổ, ông Núi rất hiển linh nên ngày nào cũng có người đến dâng hương, cầu xin sức khỏe, tài lộc, học hành... Hằng năm, vào ngày 25 và 26 tháng giêng âm lịch, chùa Linh Phong có lễ hội lớn, hàng ngàn du khách đến hang Tổ để cầu khấn.

26 thg 10, 2013

Khu lăng mộ bí ẩn

Khu di tích Gò Lăng (ở thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, H.Tây Sơn, Bình Định) được các nhà nghiên cứu và người dân địa phương nghi ngờ là khu lăng mộ của nhà Tây Sơn.

Ông Mai Văn Châu bên lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn đang bị hoang phế 

Lăng mộ 'ông nội vua nước Việt'

Đầu năm 2013, trong lần trở lại viếng lăng mộ ông Hồ Phi Tiễn (ở thôn Phú Lạc) - ông nội của 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn (90 tuổi, ở TP.Quy Nhơn, Bình Định) đã bật khóc khi chứng kiến cảnh hoang phế. Theo cụ Liễn, dù đã được phát hiện hơn 20 năm qua, nhưng ngành văn hóa tỉnh Bình Định ngoài việc công nhận là di tích cấp tỉnh vào cuối năm 2012 vẫn chưa có động thái nào đáng kể trong việc trùng tu, bảo vệ ngôi mộ cổ này.

Tường thành cổ dưới biển

Đầm Thị Nại (tỉnh Bình Định) là nơi diễn ra nhiều trận chiến ác liệt, quyết định số phận của các vương triều như: Chămpa, Tây Sơn, triều Nguyễn...

Bờ thành ở vùng biển Nhơn Hải được nhìn thấy khi thủy triều xuống - Ảnh: Ngọc Nhuận 

Vùng biển gần bờ xã Nhơn Hải (TP.Quy Nhơn) tồn tại một bờ thành chìm trong lòng biển, chỉ nhìn thấy khi thủy triều xuống. Bờ thành này nối liền vách đá thôn Hải Nam ra đến đảo Hòn Khô của thôn Hải Đông. Bề mặt thành phẳng, rộng hơn 10 m, độ cao của thành chưa xác định được. Những ngư dân làm nghề thợ lặn khẳng định bờ thành này không xây bằng đá hoặc gạch mà bằng hồ vữa đặc nguyên khối.

Thôn Hải Giang (cách bờ thành nói trên hơn 5 km) cũng có bờ thành chìm dưới lòng biển, thủy triều xuống sẽ nhìn thấy đoạn dài hơn 3 km ở gần bờ, người dân địa phương gọi là Rạng Cầu. Hai đoạn bờ thành này có kết cấu giống nhau, nên nhiều người cho rằng đó là một tường thành kéo dài. Tuy nhiên, không ai tính chính xác tường thành này dài đến đâu và được xây dựng từ thời nào.

Vùng núi thôn Hải Giang lại có một lũy đá kéo dài, bao quanh đỉnh núi Tam Tòa (thuộc hệ thống núi Phương Mai) của khu vực Hải Minh (P.Hải Cảng, TP.Quy Nhơn). Lũy được xây dựng bằng cách xếp chồng những viên đá núi có nhiều kích cỡ khác nhau. Ở những nơi còn nguyên vẹn, chiều cao của lũy đá khoảng từ 1 - 1,5 m, đáy rộng 2 m, bề mặt rộng 1,2 m.

Theo TS Đinh Bá Hòa, Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Bình Định, bờ thành Nhơn Hải và lũy đá trên núi Tam Tòa là những công trình phòng thủ khác nhau. Theo thư tịch cổ để lại thì người Chămpa xây dựng 4 thành lớn tại Bình Định gồm: Thị Nại (H.Tuy Phước), Đồ Bàn (TX.An Nhơn), Chas (TX.An Nhơn), Uất Trì (H.Tây Sơn) và một số thành nhỏ khác. Nhưng đến nay vẫn chưa phát hiện có tư liệu nào nhắc đến bờ thành được xây dựng ở vùng biển Nhơn Hải. “Bờ thành ở Nhơn Hải là một di tích rất lạ, tường thành nằm dưới nước hàng trăm năm qua vẫn còn nguyên vẹn chứng tỏ kỹ thuật xây dựng của người Chămpa rất độc đáo”, TS Hòa nói.

Theo TS Đinh Bá Hòa, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ có ghi chép vào tháng 8 năm Canh Tý (1840), vua Minh Mạng cho xây dựng pháo đài Hổ Ky ở cửa biển Thị Nại, chính quyền địa phương đã huy động trên 500 dân phu tham gia xây dựng. Sau lưng pháo đài Hổ Ky, trên đỉnh núi Phương Mai là một hệ thống thành lũy yểm trợ, được xây dựng tại 2 nơi riêng biệt là gò Vũng Tàu và gò Kinh Để. Phòng tuyến gò Kinh Để có nhiệm vụ ngăn không cho quân địch tiến từ sườn phía đông để tấn công pháo đài Hổ Ky vào phía bên trong cửa Thị Nại. Còn phòng tuyến gò Vũng Tàu để ngăn quân bộ tấn công mặt tây của pháo đài Hổ Ky và chiếm cửa biển Thị Nại.
Thị Nại có âm gốc tiếng Chămpa gọi đầy đủ là Thi Lị Bi Nại, tên phiên âm chữ Cri-Banoi là tên hải cảng của Vương quốc Chămpa. Thời Chămpa và thời Tây Sơn, Thị Nại có vai trò rất quan trọng, vừa là quân cảng và vừa là thương cảng rất sầm uất”.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn (TP.Quy Nhơn, Bình Định)

Những trận thủy chiến nổi tiếng

Đầm Thị Nại là cửa ngõ ra vào Bình Định bằng đường thủy nên triều đại nào cũng xây dựng hệ thống phòng thủ để trấn giữ. Thời Chămpa có xây thành Thị Nại, tháp Bình Lâm. Thời Tây Sơn, thủy quân cũng đóng bản doanh tại đầm Thị Nại và núi Tam Tòa. Thành Thị Nại đóng vai trò là tiền đồn bảo vệ cho kinh đô Đồ Bàn của Chămpa nên các cuộc tấn công bằng đường thủy thường nhắm vào thành này.

Trận thủy chiến đầu tiên tại thành Thị Nại được sử sách ghi lại là trận chiến chống quân Nguyên - Mông do Toa Đô chỉ huy xâm lược Chămpa vào cuối năm 1282. Thủy binh do Toa Đô chỉ huy tiến đánh thành Thị Nại quá mạnh, quân Chămpa phải rút lui.

Khoảng thời gian từ năm 1792 - 1801, thủy quân của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đã có 5 lần giao chiến tại đầm Thị Nại. Các trận năm 1792, 1793, thủy quân Nguyễn Ánh tấn công Thị Nại nhưng đều phải lui binh. Lần thứ 3, năm 1799, đại quân Nguyễn Ánh vượt qua được cửa Thị Nại, đánh chiếm luôn thành Hoàng Đế (cũng là nơi xây dựng thành Đồ Bàn cũ). Năm sau, quân Tây Sơn từ kinh thành Phú Xuân (Huế) do Trần Quang Diệu chỉ huy vào đánh lấy lại được Thị Nại rồi giao cho Võ Văn Dũng trấn thủ, sau đó kéo quân vây đánh thành Hoàng Đế.

Năm 1801, Nguyễn Ánh cho đại binh ra đánh Thị Nại nhằm giải vây cho thành Hoàng Đế. Đây là trận đại chiến lớn nhất từ trước đến nay tại đầm Thị Nại. Trong sách Nhân vật Bình Định, tác giả Đặng Quý Địch dẫn lại tư liệu của ông Barizy (một người ngoại quốc có mặt trong đoàn quân của Nguyễn Ánh tấn công Thị Nại) khẳng định quân Tây Sơn tại cửa Thị Nại gồm có 557 tàu chiến lớn nhỏ, 1.827 đại bác các cỡ và 53.250 thủy quân. Thủy quân của nhà Nguyễn có 91 thuyền chiến, 91 đại bác, 10.400 lính và lực lượng rất đông quân bộ ở Phú Yên tấn công ra.

Theo ông Barizy, quân hai bên đánh nhau rất dữ dội vào đêm rằm tháng giêng năm Tân Dậu (1801). Quân Nguyễn tập kích rất bất ngờ, đốt rất nhiều thuyền chiến của quân Tây Sơn. Các thuyền chiến và pháo hạm hai bên cầm cự đến chiều ngày 16 tháng giêng thì quân Tây Sơn bị vỡ trận, Võ Văn Dũng dẫn thủy quân rút lui. Trận này, 4.000 quân của Nguyễn Ánh bị tử thương, thuyền quân Tây Sơn bị đốt gần hết. “Lũy đá cổ trên núi Tam Tòa đã được nhắc đến trong sử sách triều Nguyễn nhưng có thể đã có từ các triều đại trước và nhà Nguyễn cho xây dựng lại. Cuối thế kỷ 18, quân Tây Sơn đã thiết lập đồn, đặt đại bác ở núi Tam Tòa, khống chế cửa biển Thị Nại. Ngày nay, người dân và các cơ quan chức năng đã trục vớt 14 khẩu súng thần công tại đầm Thị Nại là những chứng tích còn lại của trận thủy chiến giữa quân Tây Sơn và quân nhà Nguyễn. Chắc chắn trong khu vực đầm Thị Nại còn rất nhiều dấu tích liên quan đến những trận chiến này nên cần phải được nghiên cứu thêm”, TS Đinh Bá Hòa nói.

Hoàng Trọng
Loạt bài Những di tích kỳ bí - Kỳ 4