Tô hủ tiếu cá gồm hủ tiếu, cá, mực và cật heo, ăn kèm với ba loại rau gồm xà lách dòn, giá và rau cần. Một đặc điểm của món hủ tiếu cá là nồi nước dùng được hầm xương heo suốt đêm, cứ ba bộ xương heo hầm cho lượng nước dùng của 50 tô. Để nước dùng được trong, nồi nước không để dầu, mỡ vào. Đầu bếp một quán hủ tiếu cá ở Sóc Trăng cho biết, hủ tiếu cá ở đây chỉ dùng cá chẽm, phi lê lấy phần thịt; tôm, mực loại tươi; cật heo phải dòn, ngon bằng cách ngâm nước đá cho nở. Riêng hủ tiếu làm bằng bột gạo lúa mùa.
Thụy Mẫn
|
21 thg 10, 2012
Hủ tiếu cá Sóc Trăng
Hột vịt lộn rang me
Hột vịt lộn rang me. Ảnh: TPD
Nghe lạ hoắc vậy mà có thiệt. Chừng 15 phút sau, chị chủ quán bưng ra cho chúng tôi 4 cái hột vịt lộn thơm phức, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy thèm rồi. Không chờ bạn nhắc, tôi ăn thử ngay vì rất tò mò.
Chất quê trong tô bún nước lèo Sóc Trăng
Vị
mằn mặn thơm phức của mắm bồ hóc, ngọt dai của tôm tươi, thêm vài miếng
cá lóc phi lê mềm tan, mùi thơm đặc trưng của ngải bún hòa quyện trong
bát nước lèo trong veo, làm nên chất quê của bún nước lèo Sóc Trăng.
Tài liệu ẩm thực Việt Nam ghi nhận, bún nước lèo Sóc Trăng có lịch sử từ lâu đời, mà tiền thân của nó là món ăn truyền thống của người Khmer. Tỉnh Sóc Trăng là vùng đất giáp biển trù phú, có nhiều dân tộc như Kinh, Hoa, Khmer sinh sống. Trong quá trình cùng lao động, khai khẩn đất đai, các dân tộc đã chịu ảnh hưởng lẫn nhau làm nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của vùng quê này. Và bún nước lèo Sóc Trăng là một trong những sản phẩm của quá trình cộng sinh ấy.
Tô bún bún nước lèo Sóc Trăng đậm đà. Ảnh: Thi Ngoan
Tài liệu ẩm thực Việt Nam ghi nhận, bún nước lèo Sóc Trăng có lịch sử từ lâu đời, mà tiền thân của nó là món ăn truyền thống của người Khmer. Tỉnh Sóc Trăng là vùng đất giáp biển trù phú, có nhiều dân tộc như Kinh, Hoa, Khmer sinh sống. Trong quá trình cùng lao động, khai khẩn đất đai, các dân tộc đã chịu ảnh hưởng lẫn nhau làm nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của vùng quê này. Và bún nước lèo Sóc Trăng là một trong những sản phẩm của quá trình cộng sinh ấy.
Chùa Ông Bổn ở Sóc Trăng
Hương án trong gian giữa chính điện chùa Ông Bổn. Ảnh: Trần Kiều Quang
Chùa
Ông Bổn còn có tên gọi là chùa A Côn, hay Hòa An hội quán, có tuổi đời
trên 130 năm, tọa lạc tại số 9 đường Nguyễn Văn Trỗi, khóm 1, phường 1,
thành phố Sóc Trăng. Đây là một di tích nghệ thuật kiến trúc - điêu khắc
độc đáo của cộng đồng người Hoa ở Sóc Trăng nói riêng và các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long nói chung.
Theo
tài liệu của ban quản trị chùa thì vào năm 1875, chùa Ông Bổn được xây
dựng tại làng Khánh Hưng, tổng Nhiêu Khánh, tỉnh Sóc Trăng. Đến năm 1911
được trùng tu lần thứ nhất và đổi tên là Hòa An hội quán cho đến nay.
Qua bảy lần trùng tu vào các năm 1953, 1969, 1987, 1990, 1994, 1999 có
kiến tạo gia cố thêm nhưng vẫn đảm bảo được nguyên dạng xưa. Do chùa nằm
ngay trung tâm thành phố nên rất thuận tiện cho nhân dân địa phương và
du khách đến tham quan, chiêm bái.
Chùa được cất theo hình chữ Phu - tượng trưng cho sự ấm no, phú quý.
Chùa cất tuy không cao nhưng thoáng đãng, mang đậm màu sắc kiến trúc
Trung Hoa. Mái chùa lợp ngói ống phủ lớp rêu phong. Trên nóc có tượng
lưỡng long chầu nguyệt - cách trang trí truyền thống trong các ngôi chùa
Hoa. Trên các gờ mái cũng có tượng rồng, kỳ lân nằm trải dài. Phía
trước mái hiên chùa có treo một dãy đèn lồng đỏ.
Chùa
Ông Bổn được xây dựng hoàn toàn bằng đá và gỗ quý từ Trung Quốc chở
qua. Ngôi chùa có chính diện quay về hướng nam, hai bên tả hữu tô đá rửa
được nghệ nhân đắp nổi bằng xi măng rộng khoảng một thước là hai đại tự
Tăng Phước - ngụ ý chúc bà con bá tánh hưởng thêm nhiều phước lộc, tạo
thêm vẻ bề thế cho ngôi chùa. Ngoài ra, ở bên hữu khuôn viên chùa còn có
ngôi miếu nhỏ thờ thần hoàng bổn cảnh của địa phương.
Quan
sát từ đỉnh hương lớn đặt giữa khuôn viên khá rộng của ngôi chùa, tổng
thể kiến trúc di tích này có toàn bộ phần chân cột, đá xanh viền nền tam
cấp trong khu vực nội thất đến khung cửa chính của ngôi chùa… đều được
các nghệ nhân người Hoa đời trước tạc bằng đá tảng của Trung Quốc. Ngôi
chùa được thợ xây dựng theo dạng phân kim tam cấp qua thước Lỗ Ban -
theo hình chữ Phu - theo quan niệm của người Hoa.
Vào
bên trong ngôi chùa, du khách sẽ choáng ngợp trước một “rừng” hoành phi
câu đối bằng chữ Hán được treo và ốp cột từ gian tiền điện đến gian
chính điện, với nội dung ca ngợi công đức của các vị thần. Phía bên trái
(nhìn từ ngoài vào) là bàn thờ Bạch Hổ uy nghi, bên phải là bàn thờ của
Thanh Long hùng dũng - đây vừa là yếu tố phong thủy, lại vừa là vật
linh nhằm để trấn giữ tà ma, xua đi những điều xui xẻo, không hên.
Tòa
chính điện gồm ba gian. Gian chính giữa thờ Trịnh Ân, tức Cảm thiên đại
đế là vị phúc thần trong tâm thức của bà con người Hoa nơi đây. Tương
truyền, Trịnh Ân là vị khai quốc công thần, văn võ song toàn, sống vào
triều đại nhà Tống bên Trung Quốc. Ông có nhiều công lớn trong việc dạy
dân bền chí làm ăn để khẩn hoang, lập ấp và khuyên mọi người phải biết
giữ lễ nghĩa, giữ vẹn thuần phong mỹ tục.
Do
bị gian thần hãm hại nên ông bị triều đình khép vào tội chết. Lúc xử
trảm ông, đất trời cảm động trút cơn mưa, điểm vần sắc hồng. Dân chúng
thấy điềm trời như thế nên càng tỏ lòng thương tiếc và lập miếu thờ ông
làm vị phúc thần. Chuyện này lan đến triều đình, làm vua tỉnh ngộ,
thương cảm và phong sắc cho ông là Cảm thiên đại đế, tức lòng trung cảm
động đến trời.
Mặt trước chùa Ông Bổn. Ảnh: Trần Kiều Quang
Bên
trái chính điện là hương án thờ Phúc đức chính thần, bên phải là trang
thờ của Thiên Hậu thánh mẫu. Trước gian chính điện còn có hai hàng bát
bửu hai bên. Đặc biệt nét điêu khắc trong chùa hết sức điêu luyện, tinh
xảo, thể hiện nét tài hoa của các nghệ nhân Trung Quốc đời trước. Tiêu
biểu, các bức điêu khắc gỗ, hoành phi chạm trổ ba lớp, tượng thờ bằng
gỗ, câu đối bằng gỗ quý, các tượng gỗ chạm trổ các linh vật: long, lân,
quy, phụng, nai, hạc… đều thể hiện các điển tích mà các vua chúa ngày
xưa thường dùng trang trí trong cung đình, như lân hóa rồng, rồng hóa
long dây lá, Bá Ngư chầu hoàng, Bá Ngư Điểu Chích… tất cả đều là các tác
phẩm điêu khắc, hội họa đặc biệt quý hiếm thể hiện đúng theo khuôn mẫu
bên Trung Quốc.
Ngoài ra, trong
chùa còn có nhiều cổ vật quý hiếm khác là tượng gỗ thờ Ông Bổn, Ông
Phước Đức, Bà Thiên Hậu, sơn son thiếp vàng rực rỡ; bộ lư quỳ cổ hình
thái tuế, ba bộ lư vuông, cặp hạc rùa ngậm hoa sen bằng kim loại màu…
các bộ bàn thờ (quý tự) bằng gỗ quý đều được các nghệ nhân chạm khắc ba
lớp và dát vàng rất tinh xảo.
Chùa
Ông Bổn ở Sóc Trăng không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng
người Hoa ở đây, mà còn là nơi thu hút đông đảo bà con người Kinh, người
Khmer cũng như khách thập phương đến đây tham quan cúng bái trong các
dịp rằm, lễ tết, ngày vía Ông… Bên cạnh đó, chùa Ông Bổn còn là nơi tổ
chức các hoạt động văn hóa, lễ hội đặc sắc của bà con người Hoa và thông
qua đó đã tập hợp, đoàn kết mọi người cùng nhau đóng góp, gây quỹ làm
công tác từ thiện… thể hiện truyền thống đoàn kết lâu đời của bà con
người Hoa và các dân tộc Kinh, Khmer anh em.
Trần Kiều Quang
Chơi núi Bà Đen
Núi Bà Đen nhìn từ bãi đậu xe dưới chân núi. Ảnh: Anh Việt
Về miền Đông Nam bộ, đi trên tuyến quốc lộ 22 (đường xuyên Á) đến Gò Dầu rẽ phải (22B) chừng 36 ki lô mét sẽ đến thị xã Tây Ninh. Từ đây du khách có thể viếng thăm nhiều di tích, thắng cảnh nổi tiếng. Danh thắng núi Bà Đen cao 986 mét cách thị xã Tây Ninh 11 ki lô mét về phía đông bắc, nằm sừng sững giữa đồng bằng mênh mông, nhìn từ xa như một chiếc nón lá úp khổng lồ.
Mua vé vào cổng 15.000đ/người, du khách bắt đầu đi lên núi theo những bậc tam cấp đá. Đường lên núi quanh co, khúc khuỷu nhưng thoáng mát, khá dễ đi so với mươi năm về trước. Hồi ấy, du khách và người hành hương phải đi theo những lối mòn nhỏ, hiểm trở. Dọc đường lên núi, ta sẽ gặp nhiều khe nước nhỏ trong veo chảy róc rách, len lỏi qua những cánh rừng có rất nhiều hoa dại tuyệt đẹp. Du khách sẽ ngạc nhiên khi gặp những bụi “tre khổng lồ” cao có đến 50 mét, cành lá sum sê, xanh mướt với những lóng to bằng bắp vế người lớn, dài gần 1 mét. Có những cây long não, mét, dầu lông, xoài mút vòng tròn gốc to đến vài người ôm!
20 thg 10, 2012
Gỏi cá Tân Mai - Biên Hòa
Món gỏi
cá có lẽ không phải xuất xứ từ Biên Hòa, mà là từ miền Tây sông nước,
nơi có nhiều cá tôm. Thế nhưng khi du nhập vào Biên Hòa, nó được chế
biến theo một kiểu cách riêng, thành một đặc sản của Biên Hòa.
Con sông Đồng Nai đoạn chảy qua thành phố Biên Hòa tạo nên một làng nghề ở phường Tân Mai: làng cá bè, chuyên nuôi cá bè trên sông. Từ chỗ nuôi cá, ngư dân Tân Mai chế ra món gỏi cá để... lai rai, rồi trở thành món ăn khoái khẩu của cả thành phố Biên Hòa và khách phương xa.
Đoạn sông Đồng Nai nói trên, bên này là Tân Mai, bên kia là Cù lao Phố, nên món gỏi cá có cả ở Tân Mai lẫn Cù lao Phố. Thế nhưng bên phía Tân Mai vẫn nhiều hơn, nên gắn liền với tên gọi: Gỏi cá Tân Mai.
Con sông Đồng Nai đoạn chảy qua thành phố Biên Hòa tạo nên một làng nghề ở phường Tân Mai: làng cá bè, chuyên nuôi cá bè trên sông. Từ chỗ nuôi cá, ngư dân Tân Mai chế ra món gỏi cá để... lai rai, rồi trở thành món ăn khoái khẩu của cả thành phố Biên Hòa và khách phương xa.
Làng cá bè Tân Mai
Đoạn sông Đồng Nai nói trên, bên này là Tân Mai, bên kia là Cù lao Phố, nên món gỏi cá có cả ở Tân Mai lẫn Cù lao Phố. Thế nhưng bên phía Tân Mai vẫn nhiều hơn, nên gắn liền với tên gọi: Gỏi cá Tân Mai.
Lung linh bãi đá ở biển Cổ Thạch
Trên
cung đường biển dài hơn 1km, những bãi đá của biển Cổ Thạch cực kỳ ấn
tượng với vẻ lung linh như những viên ngọc nhiều màu sắc, lúc lại xù xì
như những con quái vật biển khổng lồ.
Bãi biển Cổ Thạch thuộc địa phận xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết khoảng 90km. Có hai hướng để đến nơi đây, một là từ Phan Thiết xuôi theo quốc lộ 1 đến Cổ Thạch. Hướng thứ hai từ Mũi Né vòng ra quốc lộ 1 tại Lương Sơn. Độ dài đường đi giữa hai hướng chênh lệch không nhiều, và đều ôm gọn những cung đường biển tuyệt đẹp, hay bức tranh đồi cát bao la.
Bãi biển Cổ Thạch thuộc địa phận xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết khoảng 90km. Có hai hướng để đến nơi đây, một là từ Phan Thiết xuôi theo quốc lộ 1 đến Cổ Thạch. Hướng thứ hai từ Mũi Né vòng ra quốc lộ 1 tại Lương Sơn. Độ dài đường đi giữa hai hướng chênh lệch không nhiều, và đều ôm gọn những cung đường biển tuyệt đẹp, hay bức tranh đồi cát bao la.
Hải đăng trăm tuổi mũi Kê Gà
Ngọn hải đăng trăm
tuổi trên đảo Kê Gà sừng sững giữa biển khơi đang là điểm đến hấp dẫn
đối với du khách khi đến với Bình Thuận. Đứng trên ban-công ở đỉnh hải
đăng, phong cảnh một vùng biển mở ra trước mắt du khách đẹp đến sững sờ,
hiếm có...
Từ thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) đi xe máy hoặc xe buýt dọc theo bờ biển phía nam khoảng 25 km là đến địa điểm có ngọn hải đăng trăm tuổi này. Hải đăng Kê Gà (có người gọi Khe Gà) nằm trên mũi đất nhô ra bờ biển khoảng 500 m. Lúc nước thủy triều xuống, người ta có thể đi bộ ra mũi.
Ngọn hải đăng trăm tuổi trên mũi Kê Gà - Bình Thuận
Từ thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) đi xe máy hoặc xe buýt dọc theo bờ biển phía nam khoảng 25 km là đến địa điểm có ngọn hải đăng trăm tuổi này. Hải đăng Kê Gà (có người gọi Khe Gà) nằm trên mũi đất nhô ra bờ biển khoảng 500 m. Lúc nước thủy triều xuống, người ta có thể đi bộ ra mũi.
Di tích thành cổ Châu Sa
Châu Sa hay thành Hời là tên một
thành do người Chăm tạo dựng, tọa lạc tại khu vực hạ lưu, tả ngạn sông
Trà Khúc, thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Tòa thành cổ nằm cách
TP. Quảng Ngãi 7 km về phía đông bắc, cạnh tuyến quốc lộ 24B, từ Quán
Cơm (giáp QL số 1) đi cảng biển Sa Kỳ; phía nam giáp sông Trà Khúc, phía
bắc giáp sông Hàm Giang, phía đông giáp cánh đồng Dinh, phía tây giáp
núi Bàn Cờ.
Trên khắp cõi Việt Nam, đây là thành đất duy nhất mà người Chăm còn để
lại với những dấu tích cho phép nhận diện khá rõ vị trí, quy mô, bố cục
cũng như vai trò của tòa thành đối với vùng đất có thể là một tiểu quốc
của họ, nay thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Bia di tích thành cổ Châu Sa
Sơn Mỹ mãi là điểm đến
Giám đốc Bảo tàng Sơn Mỹ - cũng là
nạn nhân của vụ thảm sát Sơn Mỹ Nguyễn Thành Công - cho biết: "Theo thời
gian, Sơn Mỹ càng hấp dẫn nhiều du khách trong nước và nước ngoài".
Trong năm 2009, khu chứng tích Sơn Mỹ (Quảng Ngãi) đã đón 106.000 lượt khách tham quan, tăng 40% so với năm trước và trong hơn hai tháng đầu năm 2010 đã có 25.000 lượt khách tham quan, trong đó có 1.630 khách nước ngoài mang 46 quốc tịch khác nhau.
Du khách đến nơi đây để hiểu thêm nỗi đáu xé lòng của người dân Sơn Mỹ trong buổi sáng kinh hoàng ngày 16-3-1968 khi 504 thường dân bị thảm sát, qua đó sẽ càng trân trọng mến yêu sự hòa bình, đồng thời chia sẻ, vui mừng với những nỗ lực của người dân nơi đây sau chiến tranh.
Du khách xem tư liệu, hiện vật trong khu chứng tích Sơn Mỹ - Ảnh: Võ Quý Cầu
Trong năm 2009, khu chứng tích Sơn Mỹ (Quảng Ngãi) đã đón 106.000 lượt khách tham quan, tăng 40% so với năm trước và trong hơn hai tháng đầu năm 2010 đã có 25.000 lượt khách tham quan, trong đó có 1.630 khách nước ngoài mang 46 quốc tịch khác nhau.
Du khách đến nơi đây để hiểu thêm nỗi đáu xé lòng của người dân Sơn Mỹ trong buổi sáng kinh hoàng ngày 16-3-1968 khi 504 thường dân bị thảm sát, qua đó sẽ càng trân trọng mến yêu sự hòa bình, đồng thời chia sẻ, vui mừng với những nỗ lực của người dân nơi đây sau chiến tranh.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)