24 thg 8, 2023

Vùng đất Thập ngũ tiên sa

Tui có dịp đến huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam và biết được rằng đây là vùng đất Thập Ngũ Tiên Sa, tức là nơi 15 nàng tiên từ thượng giới sa xuống.

Chuyện kể như vầy:

Vùng đất này thuở xa xưa đẹp hơn thượng giới. Vào mùa Xuân nọ, các nàng tiên nữ ngao du hạ giới, tới đây và mê mẩn không chịu về. 15 nàng tiên mỗi nàng chọn một chỗ để ở lại, bất chấp lệnh Ngọc hoàng Thượng đế gọi về.

15 nàng tiên, mỗi nàng một chỗ, giờ là 1 thị trấn Tiên Kỳ và 14 xã: Tiên An, Tiên Cẩm, Tiên Cảnh, Tiên Châu, Tiên Hà, Tiên Hiệp, Tiên Lãnh, Tiên Lập, Tiên Lộc, Tiên Mỹ, Tiên Ngọc, Tiên Phong, Tiên Sơn, Tiên Thọ. Còn nguyên vùng đất ấy giờ là huyện Tiên Phước.

Tui đang ngồi trên một bờ đá ở Tiên Cảnh, mộng gặp tiên nữ!

Nàng tiên nào cũng xinh đẹp, tài giỏi, đảm đang nhưng vẫn giữ nét riêng nên các vùng đất cũng có những đặc thù khác biệt.

Ví dụ như tục ngữ có câu "Gái Tiên Hà, gà Tiên Lãnh". Con gái Tiên Hà, nhờ thường xuyên tắm rửa và dùng nước ở đoạn sông Tiên đẹp nhất nên xinh hơn. Gà Tiên Lãnh ngon nhất vì nuôi thả ở vùng đất giàu côn trùng. Tiên Châu là vùng đất thủy tụ, có suối Tiên, thác 7 tầng, các bãi đá đẹp như tranh vẽ. Tiên Cảnh là vùng đất đẹp như... tiên cảnh. Còn dân làng Tiên Thọ thì nghe đồn là sống lâu nhất...

Những bờ tường đá ở Làng cổ Lộc Yên, xã Tiên Cảnh

Những cái tên nghe thiệt là hay, có từ bao đời nay. Tui tò mò tìm hiểu coi bây giờ có còn giữ được như xưa không. Hay quá, giờ vẫn là những Tiên như ngày xưa. Chả bù với thành phố nọ, khi bên thắng cuộc vô rồi bèn vênh váo đổi hết những cái tên thân thương bằng những tính từ kêu rổn rảng: Quyết Thắng, Quang Vinh, Trung Dũng, Thống Nhất... Nếu Tiên Phước mà cũng đổi tên theo kiểu đó thì... see mother Tiên rồi!

Phạm Hoài Nhân

Di ngôn của Phan Châu Trinh

Sau ngày về nước (28/6/1925), Phan Châu Trinh đã có hai buổi diễn thuyết ở Sài Gòn. Hậu thế vẫn xem đây là “di ngôn” cuối cùng ông gửi lại quốc dân đồng bào.


Những ngày tháng cuối cùng của nhà cách mạng

Sau 14 năm trên đất Pháp với rất nhiều hoạt động sôi nổi và cả những “trải nghiệm đắng cay” Phan Châu Trinh không còn mơ hồ về một nước Pháp theo tinh thần “dân quyền” của Montesquieu và J.J Rousseau mà ông đọc được trong Tân thư. Ông quyết về nước tiếp tục con đường tranh đấu của mình.

Cuốn hành Thủy Nguyên - đặc sản ít người biết ở Hải Phòng

Cuốn hành là món ăn đặc sản có công dụng giải ngấy của người dân làng nghề bún truyền thống Trịnh Xá, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.

Hải Phòng có nhiều món ngon nổi tiếng, trong đó, mỗi địa phương cũng có những đặc sản riêng, gắn bó với nhiều thế hệ. Ngoài bánh chưng Thủy Đường đắt khách mỗi dịp Tết đến, huyện Thủy Nguyên, cách TP Hải Phòng khoảng 10 km, còn có món cuốn hành với công dụng giải ngấy hiệu quả.

Món ăn được người dân làng nghề bún truyền thống Trịnh Xá, xã Thiên Hương, sáng tạo nên, thường được gọi là cuốn bún tôm hay cuốn Thủy Nguyên để phân biệt với món cuốn ở nơi khác.

Cuốn hành là đặc sản của làng Trịnh Xá, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ảnh: Quỳnh Mai.

Làng nghề bánh tráng hơn 100 tuổi ở Cần Thơ

Đến làng nghề bánh tráng Thuận Hưng, du khách được trải nghiệm quy trình làm bánh, di sản văn hóa phi vật thể của xứ Tây Đô.


Bánh tráng là đặc sản của Nam Bộ. Nếu Đông Nam Bộ có bánh tráng Tây Ninh thì Tây Nam Bộ có bánh tráng Thuận Hưng.

Đại diện Phòng Văn hóa Thông tin quận Thốt Nốt cho biết làng nghề Thuận Hưng (phường Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ) hình thành từ giữa thế kỷ XIX. Nghề làm bánh tráng ở đây được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể hồi tháng 5.

23 thg 8, 2023

Người khai khoa cho vùng đất Hội An

Tại xã Cẩm Hà (Hội An), trên một gò đất khá cao nằm cạnh đầm Trà Quế còn di tích ngôi mộ cổ của cử nhân Nguyễn Văn Điển, người được xem là “khai khoa” cho cả vùng Hội An ngày nay.

Lăng mộ Nguyễn Văn Điển tại Cẩm Hà, Hội An. Ảnh: TTBT

Cuộc đời lận đận của ông tiến sĩ làng Long Phước

Tiến sĩ Lê Thiện Trị (1796 - 1872) đã làm rạng danh không những cho làng Long Phước quê ông mà cho cả huyện Duy Xuyên và đất học Quảng Nam với thành tích được vua Minh Mạng ban cờ hiệu có 6 chữ vàng “Tiến sĩ khai khoa lục tỉnh”. Tuy nhiên, ông là người “lận đận” cả trong khoa cử lẫn trong hoạn lộ!

Nhà thờ Lê Thiện Trị ở khối phố Long Xuyên 2, thị trấn Nam Phước. Ảnh: Internet

Ghé thăm An Tất Viên - nơi an nghỉ của cụ Hồ Biểu Chánh

Tọa lạc trên một con hẻm yên tĩnh ở quận Gò Vấp (TP.HCM), An Tất Viên là nơi những người yêu thích các tác phẩm của cụ Hồ Biểu Chánh có thể đến thắp hương và ngồi lại cả ngày để thưởng thức sách của cố nhà văn.

Nơi an nghỉ, nhà trưng bày kỷ vật của nhà văn Hồ Biểu Chánh nằm cuối con hẻm ở quận Gò Vấp - Ảnh: HỮU HẠNH

Khám phá “bức tranh lạ” trên núi Mèo Cào

Từ bến thuyền, phải mất gần 2 giờ đồng hồ bơi thuyền len lỏi giữa lau, lác núi đá người ta mới được mắt chứng kiến bức họa “hình ma, chữ quỷ”.

Lần này chúng tôi vào khám phá núi Mèo Cào, giữa lúc cơn bão đang chuẩn bị đổ bộ vào miền Bắc, nắng mưa xen kẽ, không khí trước bão oi nồng khiến ai nấy đều khó chịu với kiểu thời tiết ấy.

Bức tranh “lạ” hiện nay đã được đưa vào danh mục bức tranh đá tự nhiên độc đáo lớn nhất Việt Nam trên núi đá.

22 thg 8, 2023

Dấu tích Bố chánh sứ Nguyễn Tường Vĩnh ở Hội An

Nguyễn Tường Vĩnh là con trai trưởng của Binh bộ Thượng thư Nguyễn Tường Vân. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được ghi chép trong tư liệu mộc bản triều Nguyễn và nhiều sách khảo cứu. Đặc biệt là những tư liệu về Nguyễn Tường Vĩnh hiện được lưu trữ tại dòng họ Nguyễn Tường ở Hội An như gia phả, hành thuật, văn bằng...

Nhà thờ tộc Nguyễn Tường ở Hội An. Ảnh: Internet

Quan lộ hanh thông

Hành thuật về ông cho biết, Nguyễn Tường Vĩnh tự là Tử Tu, hiệu Cẩm Giang. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), ông được bổ làm ấm sinh trường Quốc tử giám. Năm Minh Mạng 18 (1837), ông thi đỗ Cử nhân thứ 2 khoa Đinh Dậu. Đến kỳ thi hội khoa Mậu Tuất ông đỗ Phó bảng thứ nhất.

Suốt 3 triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Nguyễn Tường Vĩnh được bổ dụng từ các chức quan Tư vụ phủ Tôn nhân, Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ, Tham biện ở Nội các... cho đến Tả Thị lang Bộ Lại, Tuần vũ Định Tường. Năm Tự Đức thứ 13 (1860), ông qua đời trong lúc làm quan (Trung tâm Quản lý bảo tồn di sản Hội An, Di sản Hán Nôm Hội An, tập 2 - Tư liệu lưu trữ của dòng họ Nguyễn Tường, 2016, tr.42 - 43).

Nguyễn Tường Vĩnh tính tình hiền lành, không tranh giành hơn thiệt với người, đời sống yên tĩnh, giản dị sâu sắc. Cho nên, trong lúc làm quan, ông chọn người hết lòng vì công việc, nhiều lần trọng dụng người tài ở Định Tường.

Với bản tính hiền từ, lương thiện nên ông được con cháu trong gia đình hiếu thuận, yêu thương, được triều đình và nhân dân yêu mến, được bổ nhậm các chức vụ quan trọng dưới thời vua Thiệu Trị và Tự Đức.

Sau khi ông mất, mọi người đều bày tỏ sự thương tiếc, trong điếu văn do các quan văn võ soạn có đoạn: “...Dù thân thể đã mất đi, song tấm gương điển hình chẳng bỏ, tỏ rõ đức hạnh, sách lược và công lao được khảo cứu hết thảy, định tên thụy để đức độ rực rỡ cùng đất nước, người đời không lời dị nghị.

Thân thể đã mất, song tên tuổi vẫn cùng bậc tiên triết mà rạng ngời. Dám mong nâng lấy ngọn cờ hãy tạm dương lên để soi sáng hôm nay. Ôi thôi! Buồn thay!”
(Di sản Hán Nôm Hội An, tập 2 - Tư liệu lưu trữ của dòng họ Nguyễn Tường, sđd, tr.230).

Dấu tích ở Hội An

Nguyễn Tường Vĩnh để lại nhiều bút tích, dấu tích trên văn bia, hoành phi, văn bản hành chính ở Hội An nói riêng và Quảng Nam nói chung. Ngoài các bút tích trên các văn bản được lưu giữ trong gia đình tộc Nguyễn Tường, hiện ở Hội An chúng tôi tìm thấy được bút tích của ông trên hoành phi ở đình Cẩm Phô, Văn Thánh miếu Cẩm Phô, chùa Viên Giác, miếu Thanh Minh của Ngũ Bang.

Bức hoành phi Cẩm Phô đình đang được lưu giữ tại đình Cẩm Phô. Do trải qua thời gian bị tác động bởi nhiều yếu tố, bức hoành đã bị hư hỏng, mối mọt xâm hại, tuy nhiên các hoa văn trang trí, chữ viết trên hoành phi vẫn còn tương đối rõ để nhận diện.

Hoành phi hình chữ nhật, có kích thước 185,6cm x 98,8cm, dày 5,6cm. Hoành phi được chạm trổ tinh xảo, viền được chạm nổi đồ áng trang trí “lưỡng long triều dương” ở phía trên và dưới, hai bên viền chạm nổi đồ áng hình rồng, dây lá, bốn gốc viền là hình hoa cách điệu.

Bức hoành được sơn son thếp vàng, ở giữa chạm nổi 3 đại tự chữ Hán: 鋪 錦 亭 (Cẩm Phô đình), dòng lạc khoản năm lập đã bị mất, chỉ còn lạc khoản khắc tên người cúng (Vĩnh Long Bố chánh sứ Nguyễn phụng cúng). Ngoài ra, hoành phi còn có dấu kiềm hình hột xoài, hình tròn và vuông, chữ bị mờ nên không rõ nội dung.

Bức hoành phi “Thùy giáo vạn thế” đang được treo tại Văn thánh miếu Cẩm Phô. Bức hoành còn tương đối nguyên vẹn, các hoa văn trang trí, chữ viết không bị hư hại.

Viền được chạm nổi đồ áng trang trí “lưỡng long triều dương” ở phía trên và dưới, hai bên viền chạm nổi đồ áng hình rồng, dây lá, bốn gốc viền là hình hoa cách điệu. Bức hoành được sơn son thếp vàng, ở giữa chạm khắc nổi 4 đại tự chữ Hán: 垂 教 萬 世 (Thùy giáo vạn thế). Dòng lạc khoản có nội dung: “Tự Đức tam niên mạnh hạ thượng hoán, Vĩnh Long Bố chánh sứ Nguyễn phụng cúng”.

Chùa Viên Giác tọa lạc tại phường Cẩm Phô. Sau khi ngôi chùa được trùng tu, 4 bia đá trong chính điện đã được di chuyển ra phía sân ngoài bên phải, nằm bên cạnh gác chuông. Trong 4 bia bày, có một bia do Nguyễn Tường Vĩnh đề bút. Bia được làm vào năm Thiệu Trị thứ 2 (1842). Bia có hình chữ nhật, kích thước 134cm x 94cm. Bia được làm bằng cẩm thạch, màu xanh đen.

Về nội dung, có thể tóm lược từ bản dịch (Di sản Hán Nôm Hội An, sđd, tr.100 - 101) như sau: “… Chùa này thiền sư làng ta lập nên... Sau lúc binh qua thiêu đốt chùa bỏ thành hoang rậm, vắng bóng tăng đồ, mái rui hư hại không đứng vững, toàn xã đều nhớ di tích cũ…

Năm qua, tháng 5, kẻ thiện tâm trong xã lúc rỗi rảnh mới lo kinh doanh dỡ chùa này lấy cây gỗ tu lại chính điện, quyên góp tài lực của thập phương xây mới tiền đường. Tịnh xá mát sạch, thể chế thấy thêm mới mẻ. Gác, mái sáng cao bao la cả vạn chúng sinh. Sương chiều giao rèm ngọc, sáng sớm lọt cửa son, gió trăng dọi sáng chốn viện đình, xuân thu cỏ hoa hương sực nức, làm nên chốn quảng cư rộng rãi để yên trí tượng thần.

Trước đó chùa chưa có tên hiệu, nay lấy tên là Viên Giác. Vậy công lao phải ghi vào chung đỉnh mà chạm thành văn. Đức tốt phải khắc vào bia, ghi vào miếu mạo. Nay xin ngụ lời viết chữ son hầu tán tụng Phật chốn sa môn. (Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vào năm Nhâm Dần tháng 9, buổi sáng ngày tốt khắc. Phó bảng khoa Mậu Tuất, Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ Nguyễn Tường Vĩnh chế)”.

*
* *

Những bức hoành phi, văn bia có dấu tích của Nguyễn Tường Vĩnh tại Hội An được xem là nguồn tư liệu gốc, có tính chân xác cao, góp phần nghiên cứu, bổ khuyết, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử - văn hóa ở Hội An đang còn tồn nghi. Qua nội dung và hình thức trang trí của các hoành phi, văn bia cung cấp những thông tin quan trọng để nghiên cứu nghệ thuật thư pháp thể hiện, hoa văn trang trí, chất liệu, nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ… ở Hội An dưới thời nhà Nguyễn.

PHẠM PHƯỚC TỊNH

Món ngon trên đường lên núi

Cung đường Tam Kỳ - Nam Trà My, thức quê bày bán ven đường níu chân người qua kẻ lại.

Quán bánh ú nức tiếng dưới chân đèo Liêu.

Sáng sớm, thị trấn Tắk Pỏ (Nam Trà My) còn chút hơi lạnh, mây ngái ngủ trên đỉnh núi. Theo lời hướng dẫn của chị bán bún, tôi thả bộ đến cầu Nước Là chờ người dân gùi măng rau xuống.

Nhóm hai ba người gồm trẻ em và phụ nữ với chiếc gùi nặng oằn lưng, tôi ngó sâu bên trong vài bịch măng rừng, rau lủi, bồ ngót và mấy nải chuối xanh. Mười nghìn đồng một bịch măng, năm nghìn đồng bó rau rừng.