Hiển thị các bài đăng có nhãn người M'Nông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn người M'Nông. Hiển thị tất cả bài đăng

11 thg 10, 2020

Chiếc khiên của người M'nông

Từ xa xưa, đồng bào Tây Nguyên nói chung và người M'nông nói riêng đã biết chế tạo nhiều công cụ, vật dụng để săn bắt thú rừng và chống kẻ thù như nỏ, xà gạc, cung tên, khiên… Trong đó, chiếc khiên vừa là dụng cụ che chắn cho người sử dụng vừa là binh khí quan trọng khi chiến đấu. 

Khiên của người M’nông có hình dáng chiếc nón, màu nâu đen, có đường kính chừng 70 cm và được chia thành hai phần: thân khiên, tay cầm và hoa văn trang trí. Thân khiên có hình chóp nón, được người thợ đục đẽo từ một cây gỗ nguyên thân có độ đày trung bình 2 cm. Tay cầm có hình dấu ngoặc kép được gắn vào chính giữa lòng chiếc khiên có tác dụng giúp cho người cầm khi chiến đấu hoặc sử dụng. 

Chiếc khiên của người M'nông 

Hấp dẫn canh chua lá R’jă của người M’nông

Người M’nông trên địa bàn Đắk Nông có món canh chua lá R’jă vô cùng độc đáo. Nếu thưởng thức bát canh chua lá R’jă nóng hổi, cay dịu cùng cơm nóng, chúng ta như được hít hà trọn vẹn hương vị của núi rừng Tây Nguyên. 

Cây R’jă mọc tự nhiên trong rừng, thuộc loại thân gỗ, cao đến trên 10m. Cây nhiều tuổi mới ra hoa, cho quả. Lá có phiến mỏng, hình trái xoan ngọn giáo, đầu nhọn sắc, tựa như lá trà, mặt trên có màu sáng hơn, dài 3,5 - 10 cm, rộng 2 - 5 cm. 

Món canh chua lá R’jă nấu cá suối của người M'nông 

9 thg 10, 2020

Món canh thụt nấm mối của người M’nông

Nhắc đến canh thụt của người M’nông, nhiều du khách mới chỉ biết tới các nguyên liệu lá bép, đọt mây, cà đắng. Tuy nhiên, người M’nông còn có nhiều nguyên liệu bản địa phối hợp với nhau để nấu món canh thụt vô cùng đặc sắc. Một trong số đó là canh thụt nấu từ nấm mối, cà đắng và cá trê. 

Canh thụt nấu từ nấm mối, cà đắng và cá trê là món ăn quen thuộc trong đời sống ẩm thực người M’nông. Các nguyên liệu này cũng bắt nguồn từ tập quán tận dụng các nguyên liệu thiên nhiên dùng nấu ăn trên nương rẫy của người M’nông. 

Nấm mối, cà đắng, cá trê nướng là nguyên liệu để nấu canh thụt 

Ngày xưa khi đi làm rẫy, người M’nông thường mang theo các dụng cụ bắt cá, bẫy lươn đặt dưới ao, sông, suối. Vào bữa cơm trưa, họ lấy cá, tôm tép hay lươn bắt được để nấu ăn. Nếu có cá trê hoặc lươn, người M’nông hái thêm nấm mối và cà đắng trên đồi nấu món canh thụt độc đáo. 

14 thg 7, 2020

Dân ca M’nông chứa đựng bao nhiêu cái hay, cái đẹp!

Trong quá trình sinh sống và phát triển, đồng bào M’nông trên địa bàn tỉnh Đắk Nông nói riêng và Tây Nguyên nói chung đã sáng tạo các giá trị văn hóa độc đáo như cồng chiêng, múa xoang, ẩm thực. Trong đó, hát dân ca (Nau M’pring) M'nông được lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. 

Nét văn hóa độc đáo

Dân ca là hình thức diễn xướng dân gian được người M’nông sáng tác, lưu truyền, thực hành trong cuộc sống, lao động hàng ngày như hát ru con, hát khấn thần trong các nghi lễ, hát đố, hát đồng dao, hát kể sử thi… 

Dân ca M'nông được khai thác, trình diễn trên sân khấu 

Hấp dẫn các món ăn từ rau chơr của người M’nông

Người M’nông sinh sống gắn bó với núi rừng. Vì vậy, họ xem những loại cây trái trong tự nhiên là sản vật và có thể chế biến thành món ăn hoặc vị thuốc quý. Cây chơr (theo tiếng gọi của người M'nông) là một loại cây rừng quen thuộc của người dân nơi đây, vừa là món ăn đặc sản nhưng cũng là vị thuốc quý của đồng bào.

Cây chơr hay còn gọi là cây móp gai, rái gai, mớp gai, càng tôm. Cây thường mọc dọc theo bờ ao, ven suối, trong môi trường bán ngập nước. Thân cây ngắn, phình to, mọc lấp lửng trên mặt đất (thường gọi là củ chơr). Rễ từ thân ăn sâu xuống đất. Hoa của cây móp gai vươn cao lên trên lá, cuống hoa tròn, phát hoa là một khối dạng hình vùi trống mang đầy hoa chung quanh… Lá có cuống dạng bẹ rời, trên mép và lưng cuống có nhiều gai nhỏ, khi cuống còn non gai mềm, khi cuống lá già gai sắc nhọn. 

Người M'nông hái rau chơr ở ven sông, suối 

3 thg 7, 2020

Phục sức cho voi nhà Buôn Đôn

Voi là loài vật hoang dã sớm được đồng bào Tây Nguyên thuần dưỡng để phục vụ cho cuộc sống con người. Ngày thường ở buôn làng, voi chỉ có chiếc bành, tấm lót lưng bằng vỏ cây, dây xích bằng sắt, chiếc chuông đồng nhỏ đeo trên cổ. Trong ngày hội voi ở Buôn Đôn, voi được chăm sóc và trưng diện với bộ trang sức chỉnh chu. Trang sức chẳng những để làm đẹp, oai phong cho những ông tượng mà còn khẳng định quý trọng, thương yêu của đồng bào Tây Nguyên đối với từng con voi nhà. 

Tại xứ sở của nghề thuần dưỡng và săn bắt voi rừng, đồng bào Mnông luôn có ý thức bảo vệ, làm đẹp cho voi bằng những thứ trang sức đi kèm. Trước tiên là chiếc bành voi (vơng) phải đẹp, được làm bằng mây, hết sức cầu kỳ. Vơng đặt trên lưng voi, chở người thân đi thăm bà con xa, đi trao đổi hàng giữa các vùng. Bành có mái làm bằng sợi mây đan dày để che mưa nắng. Chiếc bành càng đẹp càng thể hiện sự sung túc, giàu có của gia chủ. Ngày nay, chiếc bành mây được thay thế bằng bành sắt để có thể sử dụng được lâu dài. Trước khi đặt bành lên lưng voi, đồng bào thường lót nhiều tấm đệm bằng vỏ cây. Trong dịp lễ hội, nhất là khi đoàn voi tham gia diễu hành trên đường phố hay lễ đài, xung quang bành voi thường treo cờ, phướn nhiều màu sắc khác nhau. 

Con voi được trang điểm hoàn chỉnh tham gia diễu hành trong ngày Hội voi ở Buôn Đôn. 

20 thg 5, 2020

Thơm ngọt quả gùi trên Cao nguyên M’nông

Cây gùi có tên khoa học là Willughbeia cochinchinensis, là loại thực vật có dây leo hóa gỗ mọc hoang dại trong rừng. Ở Việt Nam, cây gùi phân bố chủ yếu một số tỉnh ở vùng Đông Nam bộ và vùng phía Nam Tây Nguyên. 

Vào mùa gùi, bắt đầu từ tháng 4, 5 dương lịch, đi qua các bon làng chúng ta không khó để bắt gặp từng nhóm người M’nông rủ nhau vào rừng tìm hái những quả gùi chín vàng. Cũng từ đó những người đi buôn tập trung đón mua quả gùi của đồng bào dân tộc thiểu số đem bán. 


Gùi khi chín có kích thước to nhỏ khác nhau, có vỏ màu vàng, mỏng 

24 thg 4, 2020

Lễ cúng ngõ của người M’nông

Lễ cúng ngõ (Ver Bri ) của dân tộc M’nông là nghi lễ liên quan đến các hiện tượng của thiên nhiên như mưa, gió, sấm sét và những vị thần chi phối đến cuộc sống, canh tác nông nghiệp của đồng bào.

Văn hóa cổ truyền giàu bản sắc


Dân tộc M’nông sinh sống ở phía Nam Tây Nguyên, là một tộc người còn bảo lưu nhiều vốn văn hóa cổ truyền giàu bản sắc, tiêu biểu là các lễ hội truyền thống. Xuất phát từ tín ngưỡng vạn vật hữu linh, xem các hiện tượng sự vật tồn tại đều có thần, yang chi phối mọi mặt đời sống, nên đồng bào có những hình thức cầu cúng, lễ nghi để ngăn ngừa điều xấu, mong ước điều tốt đẹp, an lành trong cộng đồng. 

Diễn tấu cồng chiêng trong lễ hội. 

9 thg 3, 2020

Bảo tồn, khôi phục nghề đan lát truyền thống của đồng bào M’nông

Cũng như đồng bào các dân tộc thiểu số tại chỗ sinh sống trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, đồng bào M’nông có nhiều nghề thủ công, trong đó có nghề đan lát truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Nghề đan lát của đồng bào M’nông thường do nam giới đảm nhận. Những lúc nông nhàn, đàn ông M’nông thường tạo nhiều vật dụng phục vụ sinh hoạt gia đình, dụng cụ đánh bắt cá. Đôi khi, các sản phẩm làm ra còn được dùng để trao đổi lấy lương thực, thực phẩm, công cụ lao động với gia đình khác để tăng thêm nguồn thu nhập. 

Nghệ nhân xã Quảng Sơn (Đắk Glong) đan gùi 

23 thg 10, 2019

Những tập quán sinh hoạt đáng trân trọng của đồng bào dân tộc M’nông

Vấn đề về tập tục, về văn hóa, tín ngưỡng… của người M’nông là những đề tài khá rộng nên trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập vài nét nhỏ về tập quán, đời sống sinh hoạt và tính cách con người M’nông xưa, từ khoảng thập niên 80 của thế kỷ 20 trở về trước.

Đồng bào M'nông hát Tâm Pớt trong Hội xuân Mậu Tuất 2018. Ảnh: Mỹ Hằng 

Trước ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam tháng 4/1975, người M’nông vùng Quảng Đức (Đắk Nông) còn lạc hậu, chậm phát triển. Nhưng họ lại là tộc người có tính cộng đồng cao, với cuộc sống hết sức đơn giản, thật thà, thương người và có lòng sẻ chia. Một tính cách vô cùng đáng yêu, đáng trân trọng mà người viết đã từng gần gũi, tiếp xúc trong những năm của thập niên 60, 70, 80 của thế kỷ trước.

16 thg 10, 2019

Nồng nàn làn điệu Tâm Pớt

Trong đời sống tinh thần của đồng bào M’nông trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, Tâm Pớt là làn điệu dân ca được hát theo phong cách ngẫu hứng mang đầy màu sắc văn hóa được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. 

Trong âm thanh của cồng chiêng, bên bếp lửa bập bùng, làn điệu Tâm Pớt được cất lên thu hút sự quan tâm của cộng đồng cũng như du khách. 

Hát Tâm Pớt luôn có mặt trong các lễ hội truyền thống của người M'nông 

Theo Nghệ nhân Nhân dân Điểu Marin ở bon Bu Brâng, xã Đắk N’drung (Đắk Song), hát Tâm Pớt là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của người M’nông. Người M’nông có thể hát kể Tâm Pớt khi kết bạn, giao duyên, lúc uống rượu cần hay trong nhà, bon làng có khách quý… Mỗi bài hát Tâm Pớt gồm nhiều câu và mỗi ý được người hát ứng đối dài hay ngắn tùy theo nội dung được đề cập. Tùy theo tính chất và mục đích mà người hát Tâm Pớt thể hiện nội dung phù hợp.

7 thg 9, 2019

Nhân văn Lễ cúng vào nhà mới của người M’nông

Từ bao đời nay, người M’nông trên địa bàn tỉnh vẫn còn lưu giữ được những nét văn hóa độc đáo của dân tộc mình; trong đó lễ cúng vào nhà mới là một trong những nghi lễ quan trọng. 

Ngôi nhà không chỉ là nơi cư trú của các thành viên trong gia đình mà còn là nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng liên quan đến đời sống tâm linh của cộng đồng. Vì vậy, mỗi khi làm xong nhà, người M’nông thường tổ chức lễ cúng vào nhà mới, với những nghi thức, tục lệ mang đậm bản sắc dân tộc, ẩn chứa nhiều giá trị nhân văn sâu sắc. 

Chủ lễ mang cục than hồng, bầu nước khấn xin vào nhà mới 

20 thg 8, 2019

Lễ cúng rào bon trồng cây của người M’nông ở xã Nâm Nung

Mới đây, được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, cơ quan chức năng, đồng bào M’nông ở xã Nâm Nung (Krông Nô) đã tổ chức Lễ cúng rào bon trồng cây (Tăm Blang m’prang bon). 

Đây là một trong những nghi lễ tiêu biểu của người M’nông Preh được tổ chức 3-5 năm một lần với sự tham gia của nhiều bon làng trên địa bàn nhằm cảm tạ trời đất ban cho mưa thuận gió hòa, cây Blang đã bảo vệ che chở dân làng vượt qua bao gian khó của cuộc sống. 

Lễ cúng rào bon trồng cây là lễ hội tiêu biểu của người M'nông Preh được tổ chức 3-5 năm một lần 

13 thg 7, 2019

Lễ cúng sức khoẻ của người M’nông

Nghi lễ của đồng bào dân tộc thiểu số M’nông sinh sống tại tỉnh Đắk Nông rất phong phú và đa dạng. Hầu hết các nghi lễ đều thể hiện tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của con người trong cuộc sống. Lễ cúng sức khỏe là một trong những nghi lễ đặc trưng thường được tổ chức trong những ngày đầu năm mới. 

Nghi lễ cúng sức khỏe theo tiếng M’nông gọi là Ôp Brah Broh Srê, là lễ cúng diễn ra thường niên tại các buôn làng, để cầu mong các đấng thần linh, ông bà tổ tiên phù hộ cho con cháu không bị ốm đau bệnh tật, người đang bị ốm thì nhanh chóng phục hồi sức khỏe, dân làng có cuộc sống bình yên hạnh phúc.

Để chuẩn bị cho lễ cúng, già làng kêu gọi con cháu thực hiện các công đoạn như khoanh vùng, dựng hàng rào, làm bàn cúng, dựng cây nêu, chuẩn bị lễ vật, giã gạo, nẩu cơm...

Bao quanh khu vực diễn ra lễ cúng là một hàng rào được làm bằng những cây có gai, cây chông. Quan niệm của người xưa cho rằng, những cây gai, cây chông này sẽ cản ruồi muỗi và những con vật gây hại đền sức khỏe con người xâm nhập vào buôn làng, để cho dân làng luôn được khỏe mạnh, bình an. Đây là một khâu chuẩn bị rất quan trọng, không thể thiếu trong lễ cúng sức khỏe.

Lễ cúng sức khỏe là lễ cúng diễn ra thường niên tại các buôn làng.

9 thg 5, 2019

Giá trị nhân văn trong lễ cưới truyền thống của người M’nông

Ngoài những nghi lễ liên quan đến lao động, sản xuất, người M’nông còn có hệ thống nghi lễ liên quan đến vòng đời người như: lễ mừng sức khỏe, lễ đặt tên cho con, lễ trưởng thành, lễ cưới… Trong đó, lễ cưới bao gồm các bước: dạm ngõ, ăn hỏi, cưới, lại mặt. 

Quá trình cộng cư, giao lưu văn hóa và hội nhập đời sống hiện đại, lễ cưới của người M’nông có sự thay đổi theo hướng tối giản hơn, nhiều hủ tục xóa bỏ. Mặc dù vậy, một số nghi thức truyền thống độc đáo vẫn được người M’nông lưu giữ, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc.

Nhà trai chuẩn bị lễ vật đến hỏi cưới cô gái 

17 thg 12, 2018

Chiếc nỏ trong đời sống người M’nông

Nỏ là một dụng cụ truyền thống của người M’nông có từ lâu đời, dùng để săn bắn các loài thú rừng và là vũ khí thô sơ dùng để chiến đấu bảo vệ mọi người dân trong bon thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. 

Ngày nay, nỏ là dụng cụ thi đấu của một môn thể thao truyền thống không thể thiếu trong các cuộc thi và lễ hội truyền thống của người M’nông. Đây cũng là vật để trưng bày giới thiệu về văn hóa, tộc người trong các bảo tàng. 

Ảnh minh họa 

18 thg 11, 2018

Nghệ thuật chế tác tượng nhà mồ

Mới đây, đến Bào tàng tỉnh Đắk Nông vào một ngày trong tuần, chúng tôi rất ngạc nhiên và thú vị khi được chứng kiến tận mắt những tác phẩm nghệ thuật tượng nhà mồ bằng gỗ của đồng bào các dân tộc M’nông, Ê đê… đang được lưu giữ tại đây.

Tượng nhà mồ không chỉ mang tính nghệ thuật mà còn thể hiện được đời sống tâm linh của người Ê đê, M'nông 

Theo ông Nguyễn Anh Bằng, Giám đốc Bảo tàng tỉnh, những bức tượng nhà mồ nói trên vừa được đơn vị mời các nghệ nhân chế tác theo sự định hướng, chỉ đạo của tỉnh. Sau khi tiếp nhận một số lượng gỗ du sam và nghiên cứu để sử dụng hiệu quả trong việc lưu giữ văn hóa truyền thống của các dân tộc, Bảo tàng tỉnh đã mời các nghệ nhân có tay nghề cao, biết tạc tượng nhà mồ của người M’nông, Ê đê… đang sinh sống trên địa bàn tỉnh về tham gia chế tác. Trên cơ sở đó, các nghệ nhân được tiếp xúc, tìm hiểu một số đặc trưng về tượng nhà mồ Tây Nguyên và dựa vào đó để chế tác.

8 thg 10, 2018

Đi tìm Ot N’rông trên cao nguyên M’nông

Dân tộc M’nông đã sáng tạo ra nhiều giá trị văn hóa độc đáo, được nhiều người biết đến và ngưỡng mộ. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực văn học dân gian truyền miệng, dân tộc M’nông đã tích lũy kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, lời nói vần, những truyện cổ, truyền thuyết, thần thoại và nổi bật hơn, qui mô hơn hết là thể loại sử thi, trường ca Ot N’rông. 

Hành trình đi tìm sử thi Ot N’rông


Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu, sưu tầm ngỡ rằng dân tộc M’nông không có loại sử thi như các dân tộc láng giềng ở Tây Nguyên. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, người M’nông cũng có hình thức sử thi, nhưng tìm ra cái tên gọi bản địa nó là gì, hình hài của nó ra sao, thì vẫn là một câu hỏi chưa được giải đáp. Cuối năm 1988, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Đắk Lắk phối hợp với Viện Văn hóa dân gian tiến hành điền dã, trong đó, người viết bài này cũng may mắn là một thành viên trong đoàn, đã phát hiện ra sử thi M’nông từ nghệ nhân Y Đôn sống ở bon (buôn) Bu Dop, xã Dak Mon, huyện Dak Min, tỉnh Đắk Nông.

Nhịp chiêng trong sử thi M'nông. 

3 thg 10, 2018

Chiếc khố - trang phục truyền thống của người M’nông

Khố là một trong những trang phục cổ xưa của nam giới các dân tộc Tây Nguyên nói chung và nam giới người M’nông nói riêng. Là một tấm vải dài, khổ hẹp dùng để che chắn, bao bọc và bảo hộ bộ phận dưới của người đàn ông, quấn quanh thắt lưng, thả hai mành buông dài trước và sau.

Trang phục truyền thống của nam giới người M’nông 

Từ thời xa xưa, người M’nông đã biết chọn vỏ cây làm trang phục để che đậy, bảo hộ cơ thể, chống lại giá rét và đắp lên thân mình. Nguyên liệu làm trang phục từ những loại cây có sẵn trong rừng như cây bril, cây r’ban..., dùng vỏ để chế tác. Vỏ cây được bóc thành từng tấm, có kích thước tùy ý của từng cây, sau đó dùng đá cuội hoặc dùng bàn đập bằng gỗ, đập dập đem ngâm nước cho rã hết phần lõi, chỉ còn lại xơ mang phơi khô, sau đó tước thành sợi nhỏ đưa vào khung dệt.

8 thg 8, 2018

Độc đáo chiếc rìu của người M’nông

Ðối với người M’nông, ngoài các vật dụng lao động sản xuất như xà gạc, cái cuốc hay lưỡi cày… thì chiếc rìu là công cụ nổi trội hơn về kiểu dáng, công năng sử dụng cũng như hình thức trang trí. Đây là một vật dụng không thể thiếu trong các nghi lễ và đời sống hàng ngày của người M'nông.

Chiếc rìu là công cụ để tạc tượng gỗ của đàn ông M'nông 

Nguyên liệu để làm rìu của đồng bào M'nông đều có sẵn trong tự nhiên và rất dễ tìm. Ðể hoàn thành một chiếc rìu thì người thợ phải làm qua 3 bước cơ bản: Rèn lưỡi rìu, làm cán và ốp lót tay. Lưỡi rìu của người M’nông thường được rèn bằng sắt, rộng khoảng 7cm, dài từ 20-25cm; lưỡi hình chữ nhật, mặt chính rất sắc, tỏa nhẹ ra 2 mũi. Phần đuôi lưỡi rìu được rèn hằn sâu một bên, một bên hở để dễ lắp cũng như dễ dàng lấy ra thanh gỗ ốp lót tay nếu không may bị gãy.