29 thg 10, 2019

Cận cảnh đình làng lớn nhất xứ Quảng nơi vua Lê Thánh Tông từng nghỉ ngơi

Đình làng Chiên Đàn là một trong những công trình kiến trúc đình làng cổ nhất Quảng Nam. Khi vua Lê Thánh Tông đi chinh phạt, bình phương Nam, nhà vua đã sử dụng đình Chiên Đàn để nghỉ ngơi . 

Đình tọa lạc tại thôn Đàn Trung, xã Tam Đàn (huyện Phú Ninh), cách Quốc lộ 1 chưa đầy 1 km. 

Để tưởng nhớ công ơn những bậc tiền nhân, tiền hiền, hậu hiền đã có công khai sơn phá thạch lập nên địa hiệu Chiên Đàn, người dân trong làng, trong xã thời ấy đã cùng nhau xây dựng đình làng Chiên Đàn có quy mô bề thế và đặt tên là “Chiên Đàn xã đình”. 

Đình Chiên Đàn. ẢNH: Hữu Trà 

Đình chính được xây dựng theo hình chữ nhất, mặt xoay về hướng đông nam, mái lợp ngói âm dương, hai đầu của mái có trang trí hoa văn tinh xảo với hình tượng “Lưỡng long triều nguyệt” do những người thợ tài hoa làng mộc Văn Hà thi công. Toàn bộ khuôn viên của đình rộng 1.500 
m2, riêng ngôi đình chính rộng 500 m2


Đình gồm 5 gian, 2 chái với 30 cột bằng gỗ mít to hơn một vòng tay người lớn, 3 gian giữa dùng làm nơi thờ tự. Bên phải đình có nhà trù (dùng làm nơi để dân đinh canh gác), bên trái là nhà kho đựng lúa, lương thực và tài sản của xã Chiên Đàn…

Phía trước cổng tam quan có nhà võ ca, có mái che lớn như sân khấu để biểu diễn võ và ca hát cho nhân dân thưởng lãm trong những kỳ lễ hội. Tuy nhiên, qua thời gian và chiến tranh tàn phá, nhà võ ca chỉ còn lại dấu vết mấy trụ cột… 



Bên trong đình được chạm trổ tinh xảo. ẢNH: Hữu Trà 

Sau khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi, ở miền biên viễn phía Nam vẫn bất ổn. Mùa xuân năm 1471, vua thân chinh cầm quân tiến đánh Chiêm Thành. 

Theo sách Minh quân Lê Thánh Tông và triều thần của tác giả Lê Duy Anh: “Tháng 6.1471, vua lấy đất từ nam Hải Vân đến Thạch Bi sơn (núi Đá Bia, Phú Yên) đặt làm đạo Thừa tuyên Quảng Nam và đặt Vệ Thăng Hoa… Từ ngữ địa danh Quảng Nam bắt đầu có từ đấy và đạo Thừa tuyên Quảng Nam cũng là đạo thứ 13 trong cả nước thời bấy giờ”. 

Theo truyền thuyết và lời kể của các bô lão sống gần đình Chiên Đàn, khi vua Lê Thánh Tông đi chinh phạt, bình phương Nam, nhà vua đã sử dụng đình Chiên Đàn để nghỉ ngơi và đưa ra những quyết sách để giành thắng lợi… 

Hàng cột bằng gỗ mít đường kính hơn vòng tay ôm. ẢNH: Hữu Trà 


Vào khoảng năm 1782, cơ nghiệp nhà Trịnh đổ nát, binh biến liên miên, nhân dân khắp nơi oán thán. Lúc bấy giờ, Nguyễn Nhạc phái em là Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) kéo quân ra đánh đồn Hải Vân, giải phóng đất Thuận Hóa.

Khi đi ngang đất Hà Đông, Nguyễn Huệ được người dân ở đây rất ủng hộ và tại đình Chiên Đàn ông đã tập hợp, thành lập một lực lượng nghĩa binh lớn lấy tên gọi là “Tiền cơ Trung Nghĩa”, trong đó chọn ông Kiều Phụng người xã Chiên Đàn phụ trách hải thuyền và phong làm đô đốc; chọn cụ Đống Công Trường làm cai cơ thống lĩnh đạo nghĩa quân Hà Đông.
Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, từ 1885 - 1887, tiến sĩ Trần Văn Dư lãnh đạo “Nghĩa hội Quảng Nam” đứng lên kêu gọi người dân trong vùng hưởng ứng phong trào Cần Vương. Trong giai đoạn này, dưới sự chỉ huy của các cụ Võ Đức Mậu, Trần Hoán, Võ Bang, Võ Lê, Xã Xước, đình Chiên Đàn cũng được chọn làm nơi tuyển quân, thu nhận lương thực, khí giới trong dân nổi dậy chống quân Pháp và tay sai. 

Khi phong trào Duy Tân bùng nổ ở Quảng Nam vào năm 1904 - 1908, các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng đã tập hợp hàng ngàn người dân đến đình Chiên Đàn để diễn thuyết, kêu gọi người dân đấu tranh đòi xin xâu, giảm thuế. 

Cuộc đấu tranh của người dân ở Chiên Đàn cùng với nhân dân khắp vùng Quảng Nam trong phong trào Duy Tân đã tạo nên tiếng vang lớn khắp cả nước lúc bấy giờ. Khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945), đình Chiên Đàn được dùng làm trụ sở của Ủy ban nhân dân lâm thời xã Chiên Đàn… 



Từ khi được xây dựng đến nay, trải qua nhiều biến thiên lịch sử, đình Chiên Đàn đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần vào các năm 1932, 1955, 1967, 1972, 1996 và gần đây nhất là năm 2006. Dù vậy, kiến trúc của đình vẫn được giữ gần như nguyên vẹn.

Hằng năm, nhân dân cúng đình vào ngày đầu xuân và tổ chức lễ hội linh đình vào ngày rằm tháng 7 âm lịch nhằm giáo dục con cháu đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”, khơi dậy tinh thần yêu nước, vun đắp tình làng nghĩa xóm...

Hữu Trà

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét