7 thg 4, 2024
Hoa gạo thắp lửa trên cao nguyên đá Đồng Văn
Tháng ba, trên những triền núi cao sừng sững của cao nguyên đá Đồng Văn, hoa gạo đua nhau bung nở như thắp lửa giữa núi rừng.
Bất ngờ những sản phẩm tinh xảo trong ngôi nhà tre độc nhất vô nhị ở Hội An
Nằm dưới chân cầu Cửa Đại, cách trung tâm phố cổ Hội An chừng 3 km là một xưởng chế tác đồ vật từ tre. Nếu nhìn công xưởng nhỏ với vài gian nhà tre, không ai nghĩ rằng những món đồ ra đời từ làng quê này đã đi khắp thế giới.
6 thg 4, 2024
Vẻ đẹp mộc mạc, bình yên của bản Dao giữa núi đá trập trùng nơi biên giới
Cà Lò là bản biên giới của xã Khánh Xuân, huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng. Cả bản có 34 hộ đều là đồng bào dân tộc Dao sinh sống. Người dân ở đây xây dựng nhà bằng gỗ theo kiểu nhà sàn truyền thống sát nhau từ chân núi đến lưng chừng đồi. Bên cạnh những ngôi nhà là những vườn hoa cải vàng óng ả tạo nên một bức tranh nên thơ giữa núi đồi hùng vĩ.
Bản Cà Lò là bản biên giới của xã Khánh Xuân có điều kiện tự nhiên toàn núi đá, nên đời sống kinh tế của bà con nơi đây còn nhiều khó khăn, vất vả.
Những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền địa phương, đặc biệt là Đồn Biên phòng Xuân Trường theo Đề án 681 của Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ đội Biên phòng, về việc phân công đảng viên công tác tại các Đồn biên phòng phụ trách, giúp đỡ hộ gia đình ở khu vực biên giới, cuộc sống của người dân nơi đây ngày càng khởi sắc, ấm no.
Một số hình ảnh ghi nhận tại bản Cà Lò:
Bản Cà Lò là bản biên giới của xã Khánh Xuân có điều kiện tự nhiên toàn núi đá, nên đời sống kinh tế của bà con nơi đây còn nhiều khó khăn, vất vả.
Những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền địa phương, đặc biệt là Đồn Biên phòng Xuân Trường theo Đề án 681 của Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ đội Biên phòng, về việc phân công đảng viên công tác tại các Đồn biên phòng phụ trách, giúp đỡ hộ gia đình ở khu vực biên giới, cuộc sống của người dân nơi đây ngày càng khởi sắc, ấm no.
Một số hình ảnh ghi nhận tại bản Cà Lò:
Nồng nàn hương rượu nếp cẩm men lá
Đến với thôn Kon Jong, xã Ngọc Réo (huyện Đăk Hà), một trong những thứ khiến tôi không thể quên chính là hương rượu nếp cẩm men lá của bà con dân tộc Xơ Đăng nơi đây.
Trong lần dự Cuộc thi “Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo” do Hội LHPN tỉnh tổ chức vào năm 2022, tôi biết đến rượu nếp cẩm ở thôn Kon Jong, xã Ngọc Réo. Lần đó, sản phẩm rượu nếp cẩm men lá của chị Y Hoa ở thôn Kon Jong đã nhận được sự đánh giá cao từ ban giám khảo.
Để tìm hiểu sâu hơn về nếp cẩm, mới đây, tôi đến thôn Kon Jong, xã Ngọc Réo. Đến nhà chị lúc quá trưa, nhưng tôi thấy chị Y Hoa tất bật chuẩn bị nấu rượu, với củi, ghè, lá chuối và các nguyên vật liệu.
Trong lần dự Cuộc thi “Phụ nữ khởi nghiệp sáng tạo” do Hội LHPN tỉnh tổ chức vào năm 2022, tôi biết đến rượu nếp cẩm ở thôn Kon Jong, xã Ngọc Réo. Lần đó, sản phẩm rượu nếp cẩm men lá của chị Y Hoa ở thôn Kon Jong đã nhận được sự đánh giá cao từ ban giám khảo.
Để tìm hiểu sâu hơn về nếp cẩm, mới đây, tôi đến thôn Kon Jong, xã Ngọc Réo. Đến nhà chị lúc quá trưa, nhưng tôi thấy chị Y Hoa tất bật chuẩn bị nấu rượu, với củi, ghè, lá chuối và các nguyên vật liệu.
Độc đáo nhạc cụ truyền thống của người Xơ Đăng
Dân tộc Xơ Đăng gồm 5 nhóm tộc người là Xơ Teng, Ka Dong, Hà Lăng, Mơ Nâm, Tơ Đrá, thường phân bố tập trung chủ yếu ở các huyện Tu Mơ Rông, Đăk Tô, Đăk Hà, Kon Rẫy, Kon Plông và một số ở huyện Ngọc Hồi, Sa Thầy, Đăk Glei. Xơ Đăng là một dân tộc có nền âm nhạc dân gian phong phú, các nhạc cụ chủ yếu tự chế tác từ các loại nguyên liệu có sẵn trong rừng như tre, nứa, gỗ, dây rừng, thậm chí nhờ cả vào nước và gió.
Từ xa xưa, người Xơ Đăng chơi đàn vào các mùa lễ hội, mùa phát rẫy, lên nương trong năm. Khi tiếng chiêng, tiếng đàn, sáo vang lên, bà con sẽ được thần linh che chở, giúp xua đuổi muôn thú, chim chuột không dám phá hoại mùa màng. Các nhạc cụ không chỉ là công cụ giải trí mà dần trở thành những vật thiêng, trở thành hồn cốt trong các dịp lễ hội, sinh hoạt văn hóa của bà con.
Từ xa xưa, người Xơ Đăng chơi đàn vào các mùa lễ hội, mùa phát rẫy, lên nương trong năm. Khi tiếng chiêng, tiếng đàn, sáo vang lên, bà con sẽ được thần linh che chở, giúp xua đuổi muôn thú, chim chuột không dám phá hoại mùa màng. Các nhạc cụ không chỉ là công cụ giải trí mà dần trở thành những vật thiêng, trở thành hồn cốt trong các dịp lễ hội, sinh hoạt văn hóa của bà con.
Đánh thức tiềm năng du lịch ở Ia Chim
Xã Ia Chim (thành phố Kon Tum) có nhiều nguồn tài nguyên thu hút du lịch như lòng hồ Ia Ly, những vườn cây ăn quả và những giá trị văn hóa giàu bản sắc của cộng đồng người Gia Rai.
Cách trung tâm thành phố khoảng 10 phút đi xe máy, xã Ia Chim có những tiềm năng, lợi thế to lớn để phát triển các loại hình du lịch như: Địa thế thuận tiện, cảnh quan tươi đẹp, sơn thủy hữu tình của lòng hồ thủy điện Ia Ly; người dân hiền hòa, thân thiện và còn lưu giữ những nét văn hóa giàu bản sắc cùng với nhiều ngành nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm, tạc tượng gỗ, làm rượu cần và các sản phẩm thủ công từ tre nứa.
Không những thế, những năm gần đây Ia Chim còn được biết đến là vựa trái cây lớn của thành phố Kon Tum với nhiều chủng loại như sầu riêng, bơ, cam, bưởi, ổi, thanh long. Đây là những yếu tố để các cấp ủy, chính quyền địa phương góp phần đưa du lịch Ia Chim phát triển lên tầm cao mới trong tương lai.
Cách trung tâm thành phố khoảng 10 phút đi xe máy, xã Ia Chim có những tiềm năng, lợi thế to lớn để phát triển các loại hình du lịch như: Địa thế thuận tiện, cảnh quan tươi đẹp, sơn thủy hữu tình của lòng hồ thủy điện Ia Ly; người dân hiền hòa, thân thiện và còn lưu giữ những nét văn hóa giàu bản sắc cùng với nhiều ngành nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm, tạc tượng gỗ, làm rượu cần và các sản phẩm thủ công từ tre nứa.
Không những thế, những năm gần đây Ia Chim còn được biết đến là vựa trái cây lớn của thành phố Kon Tum với nhiều chủng loại như sầu riêng, bơ, cam, bưởi, ổi, thanh long. Đây là những yếu tố để các cấp ủy, chính quyền địa phương góp phần đưa du lịch Ia Chim phát triển lên tầm cao mới trong tương lai.
Kontum: Bảo tồn các giá trị của nhạc cụ truyền thống
Nhạc cụ truyền thống của các DTTS trên địa bàn tỉnh rất phong phú, đa dạng, được chế tác từ các loại chất liệu của núi rừng như tre, nứa, gỗ, vỏ bầu, sừng, da động vật hay từ những hợp kim. Lo ngại trước sự mai một của các giá trị truyền thống, các cấp, ngành và cộng đồng các DTTS trên địa bàn tỉnh đang chung tay gìn giữ, nỗ lực bảo tồn những nét văn hóa đặc sắc của các loại nhạc cụ truyền thống.
Nhạc cụ truyền thống của cộng đồng các DTTS được chia thành các loại gồm bộ gõ, bộ hơi và bộ gảy. Trong đó, bộ gõ có thể xem là loại phong phú với rất nhiều nhạc cụ, tiêu biểu như cồng chiêng, đàn T’rưng, trống và các loại nhạc cụ làm bằng chất liệu tre, nứa, gỗ, da; bộ hơi gồm một số loại phổ biến như: đàn Klông Put, Đinh Tuk, các loại sáo, khèn, Tù và; bộ gảy tiêu biểu như đàn Ting Ning, đàn Goong...
Trong các loại nhạc cụ truyền thống, đặc sắc và tiêu biểu nhất là cồng chiêng với nguồn gốc và lịch sử rất lâu đời, là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam được UNESCO tôn vinh là di sản của thế giới vào ngày 25/11/2005. Người DTTS xem cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ mà còn là nơi trú ngụ của thần, tiếng chiêng là lời gửi gắm tâm tư tình cảm đến với thần linh, theo suốt cuộc đời của mỗi con người thông qua các lễ thức, lễ hội.
Nhạc cụ truyền thống của cộng đồng các DTTS được chia thành các loại gồm bộ gõ, bộ hơi và bộ gảy. Trong đó, bộ gõ có thể xem là loại phong phú với rất nhiều nhạc cụ, tiêu biểu như cồng chiêng, đàn T’rưng, trống và các loại nhạc cụ làm bằng chất liệu tre, nứa, gỗ, da; bộ hơi gồm một số loại phổ biến như: đàn Klông Put, Đinh Tuk, các loại sáo, khèn, Tù và; bộ gảy tiêu biểu như đàn Ting Ning, đàn Goong...
Trong các loại nhạc cụ truyền thống, đặc sắc và tiêu biểu nhất là cồng chiêng với nguồn gốc và lịch sử rất lâu đời, là di sản văn hóa phi vật thể thứ hai của Việt Nam được UNESCO tôn vinh là di sản của thế giới vào ngày 25/11/2005. Người DTTS xem cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ mà còn là nơi trú ngụ của thần, tiếng chiêng là lời gửi gắm tâm tư tình cảm đến với thần linh, theo suốt cuộc đời của mỗi con người thông qua các lễ thức, lễ hội.
5 thg 4, 2024
Nghi lễ nhập Kut của người Chăm
Người Chăm theo chế độ mẫu hệ, đồng bào nhận diện nhau không chỉ bằng sợi dây huyết thống mà còn dựa vào yếu tố cùng chung nguồn gốc dòng tộc. Mỗi dòng tộc của người Chăm có một nhà Kut giống như nghĩa trang. Những thành viên trong cùng một dòng tộc không được quan hệ hôn nhân với nhau, cho dù đã trải qua nhiều thế hệ. Người Chăm khi chết sẽ làm lễ hoả táng, sau đó, họ chỉ giữ lại 9 miếng xương vùng trán được cắt nhỏ bằng hình đồng xu để làm lễ nhập Kut. Đó là nét đặc trưng cơ bản trong sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng Chăm Bàlamôn giáo.
Vào nhà mới - một nghi lễ quan trọng của dân tộc Lào
Trước khi chuyển đến nhà mới, người Lào ở xã Mường (huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La) phải tổ chức thực hiện các nghi lễ truyền thống để báo cáo với thần linh và tổ tiên của gia đình. Trong dịp này, con cháu và bà con chòm xóm quây quần cùng nhau chuẩn bị và vui chơi. Trải qua thời gian, phong tục này vẫn được đồng bào Lào duy trì.
Lễ hội "Bun Vốc Nặm" của người Lào ở Lai Châu
Dân tộc Lào ở huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu là cộng đồng dân cư sinh sống chủ yếu ở ven các con suối, những nơi có nhiều nước, thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp. Dân số không đông nhưng đời sống văn hóa tinh thần của người Lào có nhiều nét đặc sắc. Một trong những lễ hội tiêu biểu của người Lào là "Bun Vốc Nặm"- lễ hội té nước được tổ chức vào cuối mùa Xuân với mong ước, cầu mưa thuận, gió hòa một vụ mùa mới bội thu…
Lễ hội “Bun Vốc Nặm” gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội. Mở đầu phần lễ là nghi lễ cúng thần linh. Người Lào quan niệm, khi bắt đầu bất cứ một sự kiện quan trọng nào thì việc dâng lên các lễ vật để báo cáo và xin phép thần linh là việc cần thiết để cầu mong thần linh phù hộ cho công việc diễn ra thuận lợi.
Tại lễ hội sẽ diễn ra nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, trò chơi dân gian truyền thống, mang đậm bản sắc của dân tộc Lào. Qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, yêu quê hương, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho các thế hệ và ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn, phát huy, khai thác giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Một số hình ảnh trong lễ hội "Bun Vốc Nặm" năm 2024:
Lễ hội “Bun Vốc Nặm” gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội. Mở đầu phần lễ là nghi lễ cúng thần linh. Người Lào quan niệm, khi bắt đầu bất cứ một sự kiện quan trọng nào thì việc dâng lên các lễ vật để báo cáo và xin phép thần linh là việc cần thiết để cầu mong thần linh phù hộ cho công việc diễn ra thuận lợi.
Tại lễ hội sẽ diễn ra nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, trò chơi dân gian truyền thống, mang đậm bản sắc của dân tộc Lào. Qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, yêu quê hương, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho các thế hệ và ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn, phát huy, khai thác giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Một số hình ảnh trong lễ hội "Bun Vốc Nặm" năm 2024:
Mở đầu phần lễ là nghi lễ cúng thần linh với các lễ vật gồm lợn, gà, rượu, chè, xôi ngủ sắc, hoa quả, bánh kẹo...
Kết thúc nghi lễ cúng thần linh, xin nước mưa tại các gia đình trong bản để về cúng tượng rửa tượng Phật
Những nam thanh niên trẻ khỏe mang ống tre theo thầy đến các gia đình xin nước
Các gia đình trong bản mang nước mưa đứng 2 bên đường té nước vào đoàn rước với mong muốn được góp nước dâng lên cúng tượng Phật và cầu mong năm mới may mắn, sức khỏe, làm ăn phát đạt
Tiếp theo là lễ rửa tượng Phật với mong muốn tẩy uế, rửa đi hết những bụi bặm của trần gian trong một năm qua và cầu mong những điều mới mẻ, sạch sẽ nhất cho năm mới
Thầy cúng bắt đầu thực hiện nghi lễ cúng cầu mưa, sau đó cho cả đoàn lễ đi vòng quanh chùa 3 vòng rồi cho phép mọi người được ca hát, nhảy múa phía trước chùa
Trong tiếng trống, chiêng, mọi người nắm tay trong vòng xòe đại đoàn kết
Bà con vui trong ngày hội
Các cô gái Lào chỉnh đốn y phục vui hội
Hà Minh Hưng
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)