19 thg 3, 2021

Nhà tù Côn Đảo

Nhà tù Côn Đảo (huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) được ví như là “Trường học Cộng sản” - là nơi rèn luyện phẩm chất, ý chí của các chiến sĩ cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, và hôm nay là nơi giáo dục truyền thống đấu tranh anh dũng, lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của các bậc tiền bối cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

Ngày 1/2/1862, Thống đốc Bonard ở Nam Kỳ ký quyết định thành lập Nhà tù Côn Đảo. Chính quyền Pháp thuộc lựa chọn Côn Đảo làm nơi xây dựng ngục tù bởi lẽ nơi đây cách xa đất liền, không có phương tiện lưu thông và quan trọng là người tù không thể trốn thoát.


Trong hơn 100 năm, khoảng 20.000 chiến sĩ yêu nước thuộc nhiều thế hệ người Việt Nam bị giam cầm, tra tấn và hi sinh tại “đại ngục trần gian”, nơi cả thế giới bàng hoàng khi sự thật được phơi bày.
Trong lịch sử, chính quyền thực dân Pháp và Việt Nam Cộng hòa đã cho xây dựng 127 phòng giam, 42 xà lim và 504 phòng giam biệt lập (hay còn gọi là chuồng cọp) tại Côn Đảo. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (1975), chức năng của hệ thống nhà tù ở Côn Đảo bị giải thể. Năm 1979, Khu di tích lịch sử Côn Đảo đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích quốc gia, với 17 di tích thành phần.

Dàng Then, lễ hội cấp sắc độc đáo của người Tày

Dân tộc Tày là cư dân bản địa cư trú sớm nhất ở vùng núi Đông Bắc và Tây Bắc tổ quốc. Bà con có bề dày truyền thống văn hóa mà lễ hội Dàng Then là lễ hội rất tiêu biểu trong đời sống tín ngưỡng.

Một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian

Dàng Then là một chắc sắc mặc định trong đời sống tín ngưỡng dân gian của người Tày cư trú ở một làng, một vùng cụ thể có tài cao hiểu rộng về cúng bái và hát xướng.

Dàng Then đứng ra chủ trì tổ chức lễ hội một khi ước lệ được trời cấp cho tờ sắc để làm Dàng Then hoặc nâng cấp sắc này trở thành ngày hội sôi nổi, háo hức của cả một vùng người Tày rộng lớn với nhiều làng bản tham gia.

Thầy then phát bùa chú và buộc chỉ đỏ mong muốn bình an, tài lộc tới mọi người . Ảnh: Ngọc Thành

Những địa danh kỳ lạ: Vào Cùa ra Cộn

Không chỉ Huế, mà vùng đất Quảng Bình, Quảng Trị cũng có những địa danh một tiếng - độc âm nghe rất lạ, và đến nay chưa thể hiểu chính xác nghĩa là gì.

Xứ Cùa hôm nay đã thành một vùng quê trù phú của Quảng Trị - Ảnh: X.DŨNG

Cây mai diệu kỳ xứ Cùa

Cùa là một vùng đất thuộc huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Thời nhà Nguyễn là "kinh đô Tân Sở" - nơi vua Hàm Nghi xuất bôn kháng chiến và ban chiếu Cần Vương. Còn nhớ hôm ngồi chơi ở làng Mai Lộc (xã Cam Chính) - xứ Cùa, ông Phan Văn Bảo, chủ nhà, chợt hỏi tôi: "Anh biết vì sao làng này có tên là Mai Lộc không?", tôi lắc đầu.

9 thg 3, 2021

Mùa bắp ven sông vẫy gọi du khách

Một mùa bắp bãi sông nữa lại về. Dọc các bãi bồi ven sông Trà, đâu đâu cũng ngút ngàn một màu xanh mởn của đồng bắp phất cờ đậu trái. Những trái bắp non còn bấm sữa, lá xanh mướt một màu được người dân thu hoạch vội mang về làm quà cho thực khách. Đó là món bắp luộc thơm phức và nóng hổi, thường được thưởng thức trong những ngày tiết trời đầu xuân se lạnh.

Với những đứa con được sinh ra từ làng quả quyết rằng, ở đâu cũng có thể trồng bắp, nhưng bắp trồng ven sông ngọt chắc chắn không nơi đâu sánh bằng. Có lẽ vì vậy, cứ đến mùa bắp ven sông, nhiều người lại tìm đến nơi bán bắp luột quen thuộc nằm trên Tỉnh lộ 23B đoạn qua xã Nghĩa Thắng, Nghĩa Lâm (Tư Nghĩa) để lựa chọn cho mình một trái bắp còn đang nóng hôi hổi, rồi xuýt xoa bóc tách từng lớp lá, vừa thổi vừa thưởng thức những hạt bắp dẻo thơm và được uống bát nước bắp luộc thơm mát.

Những gian hàng bán bắp luộc trên Tỉnh lộ 623B đoạn qua xã Nghĩa Thắng (Tư Nghĩa)

Nam Châm, huyền tích và hiện thực

Núi Nam Châm nay có các bể chứa sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu (NMLD) Dung Quất vốn xưa đã ghi dấu ấn trong ca dao, lịch sử, với nhiều huyền tích.

Một ngày những năm đầu thập niên chín mươi thế kỷ XX, tôi đến làng Trung An, xã Bình Thạnh (Bình Sơn) ngay bờ tây cửa Sa Cần. Bà cụ vợ ông Lê Văn Ba, cách mạng lão thành huyện Bình Sơn, hát cho tôi nghe nhiều câu ca dao thuở trước, mà bốn câu sau đây mới đầu tiên được nghe và chưa từng được ghi vào bất cứ sách vở nào: "Hòn Ông, hòn Kẽm, hòn Bà/ Hòn Ông ai đắp, Cổ Ngựa mà ai xây/ Ai làm đó hiệp cùng đây/ Núi Nam Châm há dễ một cây nên rừng".

Tất cả các “hòn” đều nằm ở chung quanh cửa Sa Kỳ - vịnh Dung Quất. Người ta mượn hình ảnh các núi ở ven biển để nhắn nhủ nhau, gửi gắm tâm sự cùng sống nương tựa nhau. Như núi sông, như cây rừng.

Ngọt mát bát canh rau dền cơm

Gắp một nhúm rau dền cơm luộc đưa vào miệng, cảm nhận vị mềm, bùi, ngọt của loại rau dân dã thường mọc xen lẫn trong các luống rau khác. Rồi chan bát nước canh ngọt mát giúp “giải nhiệt” bao nhiêu thịt cá trong những ngày đầu năm.

Rau dền là loại rau quen thuộc trong bữa ăn của nhiều gia đình, song với rau dền cơm có lẽ khó thấy nhất so với các loại rau dền khác. Bởi đây là loại rau hay “mọc ké” trong các luống rau cải, mồng tơi, xà lách mà chẳng cần gieo trồng. Thông thường, sau khi thu hoạch các loại rau, người nông dân hay để dành lại rau dền để nhà ăn. Chỉ thỉnh thoảng, rau dền cơm mọc nhiều mới nhổ bán. Thế nên, lâu lâu ra chợ mới thấy cô hàng rau có vài bó rau dền cơm mà chỉ thoáng chốc đã bán hết vèo.

Bát canh rau dền cơm nấu cùng tôm có vị ngọt thanh mát, hương vị đậm đà đặc trưng của loại rau dân dã. Ảnh: H.THẢO

Bùi ngùi cơm ghế củ lang khô

Má tôi bảo “ngày xưa nhiều gia đình còn nghèo nên phải ghế củ lang khô với cơm mới đủ no bụng cho cả nhà". Đến bây giờ, mùi vị của nó vẫn theo tôi hoài không thể nào quên được.

Ngày trước, sau mùa mưa kéo dài, đất còn ướt, má tôi tranh thủ lên vài luống rau lang làm thức ăn cho heo, sau đó đào lấy củ xắt phơi khô để ghế cơm. Đến kỳ thu hoạch, những củ khoai lang tím, trắng mập ú được anh em tôi cặm cụi lặt cuống, bỏ vào giỏ, khuân vào nhà cho má. Xong công việc, tối đến mấy anh em ngồi lại, dùng dao gọt hết vỏ ngoài để má rửa sạch rồi xắt thành lát mỏng, chẻ nhỏ thành miếng cho vào những chiếc nong, chiếc nia mang ra phơi. Khi củ lang đã đủ nắng, khô rang, giòn rụm, má cho vào bịch ni lông rồi cột chặt cất vào thùng phuy. Khi nấu cơm, má hốt ra một ít vo cùng với gạo, nhóm bếp, thổi lửa chờ cơm chín.

Món cơm ghế củ lang khô. Ảnh: HOÀI BIỆT

Cổ miếu bên đồi ông Diên

Ngôi miếu cổ nằm cạnh chân đồi với khung cảnh thâm nghiêm, bốn mùa khói hương bảng lảng. Mùa nối mùa, nhiều người dân vẫn đến chiêm bái, cầu mong gia đình may mắn, xóm làng yên vui...

Miếu cổ bên làng

Làng Thạnh Đức 1 (giờ là tổ dân phố Thạnh Đức 1, phường Phổ Thạnh, TX.Đức Phổ) nằm bên biển Sa Huỳnh bốn mùa lộng gió. Đồi ông Diên tựa tường thành che chắn cho làng khỏi họa cuồng phong từ biển cả bao la. Bên chân đồi có ngôi miếu cổ xây dựng hàng trăm năm trước, bốn mùa khói hương bảng lảng. Miếu quay về phía làng với mái ngói lô xô và đầm Nước Mặn, nơi tàu cá chen chúc neo đậu sau chuyến vươn khơi. "Theo lời ông bà kể lại thì miếu thờ bà Cửu Thiên Huyền Nữ, xây dựng từ hàng trăm năm trước, nhưng không có sử liệu ghi chép cụ thể vào năm nào...", Bí thư Chi bộ tổ dân phố Thạnh Đức 1 Võ Đức Thuận cho hay.

Ngôi miếu cổ bên chân đồi ông Diên. ẢNH: TRANG THY

Nhớ củ lang ngào

Ở Quảng Ngãi, cứ sau Tết âm lịch là mùa thu hoạch mía bắt đầu, cũng là mùa củ lang bước vào chính vụ. Sự trùng hợp ngẫu nhiên này khiến cho những cư dân của xứ sở mía đường có thêm một món đặc sản không dễ nơi nào có được: Củ lang ngào đường.

Một vài clip phổ biến trên mạng bày cách ngào đường từ củ lang hoàn toàn không giống như cái cách mà những ông thợ nấu đường thủ công ở Quảng Ngãi ngào đường từ ba bốn chục năm trước, lúc đường thủ công còn thịnh hành. Nghĩa là, củ lang trong clip được các bà nội trợ chiên trong chảo dầu cho chín giòn trước khi ngào với đường tinh luyện. Củ lang ngào đường mà các thợ nấu đường thủ công làm không quá cầu kỳ, thậm chí rất đơn giản, nhưng lại mang một hương vị khó lẫn.

Củ lang ngào đường. ẢNH: TRẦN ĐĂNG

Những địa danh kỳ lạ: Bí ẩn làng "chị em" ngàn năm không lấy nhau

Chỉ từ một lời thề nguyện mà gần ngàn năm nay, hai ngôi làng đặc biệt ở tỉnh Nam Định trai gái không nhau bao giờ lấy nhau. Giữa thời hiện đại, nhiều người hai làng vẫn giữ nếp cũ khiến bao người lấy làm lạ.

Đền Tức Mặc thờ Vương Thục Côn công chúa uy nghi - Ảnh: TÂM LÊ

Thế hệ sau như tôi và đời con cũng không nghĩ đến việc lấy vợ Tức Mặc, dù có thương quý cô nào cũng nào dám tỏ tình.

Ông Trần Khắc Định (trưởng thôn Thượng Lỗi)