16 thg 9, 2020
Di tích đình Rồng và tấm bia di văn quý giá
Tọa lạc trên khu đất cao ráo, thoáng rộng ngay đầu làng, đình Rồng, xã Quốc Tuấn (Nam Sách) - di tích cấp tỉnh được Nhà nước xếp hạng năm 2013 mang nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học.
Thăm Khu di tích Lung Lá Nhà Thể – Cà Mau
Khu Căn cứ Tỉnh ủy Lung Lá – Nhà Thể là di tích lịch sử cách mạng thuộc ấp Trần Độ, xã Thạnh Phú, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Địa danh này là niềm tự hào của nhân dân hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu về truyền thống cách mạng của cha ông trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Cách trung tâm thành phố Cà Mau khoảng 15 km, khách du lịch Cà Mau muốn đến thăm di tích có thể đi đường sông theo kinh Rạch Rập rẽ phải vào kinh Lung Lá, hoặc đi đường bộ theo tuyến Quốc lộ 1 đến chợ Nhà Phấn, tại cổng chào rẽ phải đi về hướng tây khoảng 5km nữa là tới.
Khu di tích Lung Lá Nhà Thể – Cà Mau
Cách trung tâm thành phố Cà Mau khoảng 15 km, khách du lịch Cà Mau muốn đến thăm di tích có thể đi đường sông theo kinh Rạch Rập rẽ phải vào kinh Lung Lá, hoặc đi đường bộ theo tuyến Quốc lộ 1 đến chợ Nhà Phấn, tại cổng chào rẽ phải đi về hướng tây khoảng 5km nữa là tới.
15 thg 9, 2020
Di tích Nhà Mồ Ba Chúc – Tri Tôn – An Giang
Di Tích Nhà mồ Ba Chúc thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, An Giang đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 10/7/1980. Nơi đây lưu giữ hài cốt của những người dân vô tội bị sát hại và được xem là một bản cáo trạng về tội ác diệt chủng của Pôn Pốt, muôn đời còn ghi nhớ. Đồng thời khẳng định giá trị nhân văn, tính chính nghĩa và nghĩa vụ quốc tế cao cả của Quân tình nguyện Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng và tái thiết đất nước.
Nằm dưới chân dãy Thất Sơn hùng vĩ, thị trấn Ba Chúc, trước kia là xã Ba Chúc, cách biên giới Việt Nam – Campuchia khoảng 7km. Vào đầu năm 1977, dân số của Ba Chúc hơn 16.000 người, chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp truyền thống, buôn bán nhỏ. Đây cũng là vùng đất khởi nguồn và trung tâm của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, với nhiều buổi sinh hoạt lễ hội, lễ cúng phản ánh đời sống tinh thần phong phú của người dân địa phương.
Di Tích Nhà mồ Ba Chúc – Ảnh: Bùi Thụy Đào Nguyên
Nằm dưới chân dãy Thất Sơn hùng vĩ, thị trấn Ba Chúc, trước kia là xã Ba Chúc, cách biên giới Việt Nam – Campuchia khoảng 7km. Vào đầu năm 1977, dân số của Ba Chúc hơn 16.000 người, chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp truyền thống, buôn bán nhỏ. Đây cũng là vùng đất khởi nguồn và trung tâm của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, với nhiều buổi sinh hoạt lễ hội, lễ cúng phản ánh đời sống tinh thần phong phú của người dân địa phương.
14 thg 9, 2020
Khám phá hang Chà Lòi
Nhắc tới “vương quốc hang động Quảng Bình”, hầu như ai cũng nghĩ đến hệ thống hang động kỳ vĩ Sơn Đoòng, song, ít ai biết được rằng, dưới chân dãi núi đá vôi phía Tây bắc huyện Lệ Thủy, thuộc xã Ngân Thủy cũng có hệ thống hang động tuyệt đẹp mang tên Chà Lòi, mang đến cho du khách những trải nghiệm mới lạ.
Hệ thống hang động Chà Lòi tại Lệ Thủy nằm bên cạnh Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng cách trung tâm Đồng Hới tầm 40km theo hướng Tây Nam. Nơi đây đã từng in dấu chân của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Chính vì vậy cho tới tận bây giờ người dân huyện Lệ Thủy nơi có hệ thống hang động này nằm trên địa bàn luôn luôn tự hào khi nhắc đến.
Từ bên ngoài nhìn vào, Chà Lòi vẫn chưa thực sự hấp dẫn bởi cửa hang khá nhỏ, chỉ rộng khoảng 4 m2. Thế nhưng bạn đừng vội thất vọng, vì sâu trong hang mới là một “mê cung thạch nhũ” đang chào đón bạn. Len lỏi qua cửa hang nhỏ hẹp là một thế giới hang động rộng thênh thang, cao lớn và hùng vĩ, như một lời chào đón bạn với vùng đất của vẻ đẹp huyền ảo, diệu kỳ.
Hệ thống hang động Chà Lòi tại Lệ Thủy nằm bên cạnh Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng cách trung tâm Đồng Hới tầm 40km theo hướng Tây Nam. Nơi đây đã từng in dấu chân của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Chính vì vậy cho tới tận bây giờ người dân huyện Lệ Thủy nơi có hệ thống hang động này nằm trên địa bàn luôn luôn tự hào khi nhắc đến.
Từ bên ngoài nhìn vào, Chà Lòi vẫn chưa thực sự hấp dẫn bởi cửa hang khá nhỏ, chỉ rộng khoảng 4 m2. Thế nhưng bạn đừng vội thất vọng, vì sâu trong hang mới là một “mê cung thạch nhũ” đang chào đón bạn. Len lỏi qua cửa hang nhỏ hẹp là một thế giới hang động rộng thênh thang, cao lớn và hùng vĩ, như một lời chào đón bạn với vùng đất của vẻ đẹp huyền ảo, diệu kỳ.
Suối Tiên – không gian nguyên sơ hấp dẫn du khách
Suối Tiên – một trong những không gian du lịch còn khá hoang sơ nằm sâu trong lòng hồ Thủy Yên thuộc xã Lộc Thủy, huyện Phú Lộc không chỉ có cảnh sắc thơ mộng, sự bình yên vốn có của núi rừng thời gian gần đây trở thành một điểm đến hấp dẫn du khách gần xa.
Từ TP. Huế chạy xe máy theo quốc lộ 1A, mất chừng hơn 1 giờ di chuyển khoảng 50km, theo hướng vào Đà Nẵng. Khi vừa qua khỏi hầm Phước Tượng, rẽ phải băng qua những cánh rừng tràm vi vút, hồ Thủy Yên hiện ra trước mắt.
Một bãi tắm nằm trong hệ thống suối Tiên. Dòng nước ở đây xanh mát chảy từ trên cao xuống. Vì mới được khai thác nên suối Tiên trở thành điểm đến của nhiều người thích khám phá
Từ TP. Huế chạy xe máy theo quốc lộ 1A, mất chừng hơn 1 giờ di chuyển khoảng 50km, theo hướng vào Đà Nẵng. Khi vừa qua khỏi hầm Phước Tượng, rẽ phải băng qua những cánh rừng tràm vi vút, hồ Thủy Yên hiện ra trước mắt.
Độc đáo với team building ở A Nôr
Lúc xe đang vượt đèo A Co (A Lưới), người tổ chức tour giới thiệu, team building (các trò chơi tập thể) lần này sẽ rất khác biệt, không chỉ giúp du khách gắn kết với nhau, mà còn là sự trải nghiệm và khám phá văn hóa độc đáo của A Lưới, hòa mình vào cảnh sắc, thiên nhiên ở làng du lịch cộng đồng A Nôr...
Ngắm hoàng hôn từ tháp cao Điều Ngự
Huế có 4 ngôi chùa là quốc tự, 3 ngôi chùa Thiên Mụ, Diệu Đế, Giác Hoàng ở kinh thành, riêng Túy Vân mãi tận Tư Hiền. Năm 1648, chúa Nguyễn Phúc Tần qua vùng đầm Cầu Hai, thấy phong cảnh hữu tình, bèn cho lập một cái am nhỏ làm nơi cầu phúc. Chúa Nguyễn Phúc Chu sau đó nâng cấp thành chùa. Năm 1825, vua Minh Mạng cho dựng lại chùa và hơn 10 năm sau hoàn chỉnh, gồm một chùa (Thánh Duyên), một gác (Đại Từ) và một tháp (Điều Ngự).
Ẩm thực Huế và những cặp bài trùng
Hài hòa và ôn nhu là cái đích đến mà ẩm thực Huế luôn hướng tới, với những “cặp bài trùng kinh điển”.
Thịt heo và tôm chua là sự kết hợp “cổ điển” của ẩm thực Huế, nếu là thịt ba chỉ thì lại càng ngon. Mỗi khi nhà tôi được tặng một thẩu tôm chua, mẹ lại cất công ra chợ mua vài lạng thịt heo về chế biến. Món ăn tuy đơn giản nhưng hao cơm vô cùng, dùng thêm với cơm nóng thì cay “tới nóc”. Thịt heo luộc ăn kèm với nước mắm chanh ớt cũng ngon nhưng đi cùng con tôm mặn mà, rực rỡ mới thật sự tôn vinh được cái béo ngọt và quyến rũ của thịt heo.
Bánh lọc, nước mắm mặn và ớt cao sản. Ảnh minh họa
Thịt heo và tôm chua là sự kết hợp “cổ điển” của ẩm thực Huế, nếu là thịt ba chỉ thì lại càng ngon. Mỗi khi nhà tôi được tặng một thẩu tôm chua, mẹ lại cất công ra chợ mua vài lạng thịt heo về chế biến. Món ăn tuy đơn giản nhưng hao cơm vô cùng, dùng thêm với cơm nóng thì cay “tới nóc”. Thịt heo luộc ăn kèm với nước mắm chanh ớt cũng ngon nhưng đi cùng con tôm mặn mà, rực rỡ mới thật sự tôn vinh được cái béo ngọt và quyến rũ của thịt heo.
Chiến thắng Xương Giang qua mộc bản triều Nguyễn
Trong các triều đại phong kiến Việt Nam, triều Nguyễn luôn quan tâm đến việc nghiên cứu, biên soạn, lưu trữ sử liệu các bộ sử chính thống. Một trong các loại hình lưu giữ phổ biến là những văn bản chữ Hán – Nôm được khắc ngược trên gỗ được gọi là mộc bản và là di sản tư liệu vô cùng quý giá còn được lưu giữ đến nay.
Dưới triều Nguyễn, Quốc Sử quán là cơ quan chuyên trách việc nghiên cứu tư liệu lịch sử của triều đình ra đời vào năm 1820 thời vua Minh Mạng. Đây cũng là nơi biên soạn, in ấn lưu giữ hàng vạn tấm mộc bản triều Nguyễn ghi chép lại nhiều sự kiện lịch sử, điều luật, công danh, sự nghiệp của các vua chúa, danh thần, các bộ sách sử, tác phẩm văn chương…
Chính vì yếu tố trên nên Mộc bản triều Nguyễn mang tính chính xác, chân thực có giá trị lịch sử cao được coi là quốc bảo. Hiện nay, kho tàng mộc bản triều Nguyễn có hơn 34 nghìn tấm, phần lớn được khắc hai mặt bằng gỗ thị với nhiều chủ đề về địa lý, lịch sử, quân sự, pháp chế, văn thơ, tôn giáo - tư tưởng- triết học, ngôn ngữ - văn tự, chính trị - xã hội, văn hóa - giáo dục.
Kho tàng mộc bản trên hiện được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV- Đà Lạt. Ngày 30-7-2009, Mộc bản triều Nguyễn là tư liệu đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận Di sản tư liệu thế giới.
Dưới triều Nguyễn, Quốc Sử quán là cơ quan chuyên trách việc nghiên cứu tư liệu lịch sử của triều đình ra đời vào năm 1820 thời vua Minh Mạng. Đây cũng là nơi biên soạn, in ấn lưu giữ hàng vạn tấm mộc bản triều Nguyễn ghi chép lại nhiều sự kiện lịch sử, điều luật, công danh, sự nghiệp của các vua chúa, danh thần, các bộ sách sử, tác phẩm văn chương…
Chính vì yếu tố trên nên Mộc bản triều Nguyễn mang tính chính xác, chân thực có giá trị lịch sử cao được coi là quốc bảo. Hiện nay, kho tàng mộc bản triều Nguyễn có hơn 34 nghìn tấm, phần lớn được khắc hai mặt bằng gỗ thị với nhiều chủ đề về địa lý, lịch sử, quân sự, pháp chế, văn thơ, tôn giáo - tư tưởng- triết học, ngôn ngữ - văn tự, chính trị - xã hội, văn hóa - giáo dục.
Kho tàng mộc bản trên hiện được lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV- Đà Lạt. Ngày 30-7-2009, Mộc bản triều Nguyễn là tư liệu đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận Di sản tư liệu thế giới.
Tài quân sự của Đàm Thận Huy
Ở TP Bắc Giang có tuyến phố mang tên Đàm Thận Huy được đặt từ khi chưa chia tách tỉnh Hà Bắc. Ông là danh nhân lịch sử văn hóa của dân tộc nhưng còn ít người biết đến sự kiện lịch sử ông được vua Lê giao mật chiếu lên vùng Bắc Giang gây dựng căn cứ phòng, chống chống nhà Mạc từ những năm đầu thế kỷ XV.
Đàm Thận Huy người xã Ông Mặc, huyện Đông Ngàn, xứ/trấn Kinh Bắc xưa, nay là thôn Ông Mạc (tên Nôm là làng Me), xã Hương Mạc, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh năm Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4 (1463), năm 28 tuổi thi đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21(1490).
Đàm Thận Huy người xã Ông Mặc, huyện Đông Ngàn, xứ/trấn Kinh Bắc xưa, nay là thôn Ông Mạc (tên Nôm là làng Me), xã Hương Mạc, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông sinh năm Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4 (1463), năm 28 tuổi thi đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21(1490).
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)