26 thg 10, 2013

Tường thành cổ dưới biển

Đầm Thị Nại (tỉnh Bình Định) là nơi diễn ra nhiều trận chiến ác liệt, quyết định số phận của các vương triều như: Chămpa, Tây Sơn, triều Nguyễn...

Bờ thành ở vùng biển Nhơn Hải được nhìn thấy khi thủy triều xuống - Ảnh: Ngọc Nhuận 

Vùng biển gần bờ xã Nhơn Hải (TP.Quy Nhơn) tồn tại một bờ thành chìm trong lòng biển, chỉ nhìn thấy khi thủy triều xuống. Bờ thành này nối liền vách đá thôn Hải Nam ra đến đảo Hòn Khô của thôn Hải Đông. Bề mặt thành phẳng, rộng hơn 10 m, độ cao của thành chưa xác định được. Những ngư dân làm nghề thợ lặn khẳng định bờ thành này không xây bằng đá hoặc gạch mà bằng hồ vữa đặc nguyên khối.

Thôn Hải Giang (cách bờ thành nói trên hơn 5 km) cũng có bờ thành chìm dưới lòng biển, thủy triều xuống sẽ nhìn thấy đoạn dài hơn 3 km ở gần bờ, người dân địa phương gọi là Rạng Cầu. Hai đoạn bờ thành này có kết cấu giống nhau, nên nhiều người cho rằng đó là một tường thành kéo dài. Tuy nhiên, không ai tính chính xác tường thành này dài đến đâu và được xây dựng từ thời nào.

Vùng núi thôn Hải Giang lại có một lũy đá kéo dài, bao quanh đỉnh núi Tam Tòa (thuộc hệ thống núi Phương Mai) của khu vực Hải Minh (P.Hải Cảng, TP.Quy Nhơn). Lũy được xây dựng bằng cách xếp chồng những viên đá núi có nhiều kích cỡ khác nhau. Ở những nơi còn nguyên vẹn, chiều cao của lũy đá khoảng từ 1 - 1,5 m, đáy rộng 2 m, bề mặt rộng 1,2 m.

Theo TS Đinh Bá Hòa, Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp Bình Định, bờ thành Nhơn Hải và lũy đá trên núi Tam Tòa là những công trình phòng thủ khác nhau. Theo thư tịch cổ để lại thì người Chămpa xây dựng 4 thành lớn tại Bình Định gồm: Thị Nại (H.Tuy Phước), Đồ Bàn (TX.An Nhơn), Chas (TX.An Nhơn), Uất Trì (H.Tây Sơn) và một số thành nhỏ khác. Nhưng đến nay vẫn chưa phát hiện có tư liệu nào nhắc đến bờ thành được xây dựng ở vùng biển Nhơn Hải. “Bờ thành ở Nhơn Hải là một di tích rất lạ, tường thành nằm dưới nước hàng trăm năm qua vẫn còn nguyên vẹn chứng tỏ kỹ thuật xây dựng của người Chămpa rất độc đáo”, TS Hòa nói.

Theo TS Đinh Bá Hòa, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ có ghi chép vào tháng 8 năm Canh Tý (1840), vua Minh Mạng cho xây dựng pháo đài Hổ Ky ở cửa biển Thị Nại, chính quyền địa phương đã huy động trên 500 dân phu tham gia xây dựng. Sau lưng pháo đài Hổ Ky, trên đỉnh núi Phương Mai là một hệ thống thành lũy yểm trợ, được xây dựng tại 2 nơi riêng biệt là gò Vũng Tàu và gò Kinh Để. Phòng tuyến gò Kinh Để có nhiệm vụ ngăn không cho quân địch tiến từ sườn phía đông để tấn công pháo đài Hổ Ky vào phía bên trong cửa Thị Nại. Còn phòng tuyến gò Vũng Tàu để ngăn quân bộ tấn công mặt tây của pháo đài Hổ Ky và chiếm cửa biển Thị Nại.
Thị Nại có âm gốc tiếng Chămpa gọi đầy đủ là Thi Lị Bi Nại, tên phiên âm chữ Cri-Banoi là tên hải cảng của Vương quốc Chămpa. Thời Chămpa và thời Tây Sơn, Thị Nại có vai trò rất quan trọng, vừa là quân cảng và vừa là thương cảng rất sầm uất”.
Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn (TP.Quy Nhơn, Bình Định)

Những trận thủy chiến nổi tiếng

Đầm Thị Nại là cửa ngõ ra vào Bình Định bằng đường thủy nên triều đại nào cũng xây dựng hệ thống phòng thủ để trấn giữ. Thời Chămpa có xây thành Thị Nại, tháp Bình Lâm. Thời Tây Sơn, thủy quân cũng đóng bản doanh tại đầm Thị Nại và núi Tam Tòa. Thành Thị Nại đóng vai trò là tiền đồn bảo vệ cho kinh đô Đồ Bàn của Chămpa nên các cuộc tấn công bằng đường thủy thường nhắm vào thành này.

Trận thủy chiến đầu tiên tại thành Thị Nại được sử sách ghi lại là trận chiến chống quân Nguyên - Mông do Toa Đô chỉ huy xâm lược Chămpa vào cuối năm 1282. Thủy binh do Toa Đô chỉ huy tiến đánh thành Thị Nại quá mạnh, quân Chămpa phải rút lui.

Khoảng thời gian từ năm 1792 - 1801, thủy quân của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đã có 5 lần giao chiến tại đầm Thị Nại. Các trận năm 1792, 1793, thủy quân Nguyễn Ánh tấn công Thị Nại nhưng đều phải lui binh. Lần thứ 3, năm 1799, đại quân Nguyễn Ánh vượt qua được cửa Thị Nại, đánh chiếm luôn thành Hoàng Đế (cũng là nơi xây dựng thành Đồ Bàn cũ). Năm sau, quân Tây Sơn từ kinh thành Phú Xuân (Huế) do Trần Quang Diệu chỉ huy vào đánh lấy lại được Thị Nại rồi giao cho Võ Văn Dũng trấn thủ, sau đó kéo quân vây đánh thành Hoàng Đế.

Năm 1801, Nguyễn Ánh cho đại binh ra đánh Thị Nại nhằm giải vây cho thành Hoàng Đế. Đây là trận đại chiến lớn nhất từ trước đến nay tại đầm Thị Nại. Trong sách Nhân vật Bình Định, tác giả Đặng Quý Địch dẫn lại tư liệu của ông Barizy (một người ngoại quốc có mặt trong đoàn quân của Nguyễn Ánh tấn công Thị Nại) khẳng định quân Tây Sơn tại cửa Thị Nại gồm có 557 tàu chiến lớn nhỏ, 1.827 đại bác các cỡ và 53.250 thủy quân. Thủy quân của nhà Nguyễn có 91 thuyền chiến, 91 đại bác, 10.400 lính và lực lượng rất đông quân bộ ở Phú Yên tấn công ra.

Theo ông Barizy, quân hai bên đánh nhau rất dữ dội vào đêm rằm tháng giêng năm Tân Dậu (1801). Quân Nguyễn tập kích rất bất ngờ, đốt rất nhiều thuyền chiến của quân Tây Sơn. Các thuyền chiến và pháo hạm hai bên cầm cự đến chiều ngày 16 tháng giêng thì quân Tây Sơn bị vỡ trận, Võ Văn Dũng dẫn thủy quân rút lui. Trận này, 4.000 quân của Nguyễn Ánh bị tử thương, thuyền quân Tây Sơn bị đốt gần hết. “Lũy đá cổ trên núi Tam Tòa đã được nhắc đến trong sử sách triều Nguyễn nhưng có thể đã có từ các triều đại trước và nhà Nguyễn cho xây dựng lại. Cuối thế kỷ 18, quân Tây Sơn đã thiết lập đồn, đặt đại bác ở núi Tam Tòa, khống chế cửa biển Thị Nại. Ngày nay, người dân và các cơ quan chức năng đã trục vớt 14 khẩu súng thần công tại đầm Thị Nại là những chứng tích còn lại của trận thủy chiến giữa quân Tây Sơn và quân nhà Nguyễn. Chắc chắn trong khu vực đầm Thị Nại còn rất nhiều dấu tích liên quan đến những trận chiến này nên cần phải được nghiên cứu thêm”, TS Đinh Bá Hòa nói.

Hoàng Trọng
Loạt bài Những di tích kỳ bí - Kỳ 4

Chuyện liêu trai trong ngôi chùa cổ

Chùa Thập Tháp (ở P.Nhơn Thành, TX.An Nhơn, Bình Định) có nhiều câu chuyện truyền miệng hoang đường, nghe đến không ít người phải rùng mình.

Cổng chùa Thập Tháp 

Quần thể di tích Phật giáo

Nhà nghiên cứu Lộc Xuyên Đặng Quý Địch khẳng định chùa Thập Tháp (tên đầy đủ là Thập Tháp Di Đà Tự) do thiền sư Nguyên Thiều (1648 - 1728) kiến tạo rồi làm lễ khai sơn vào năm 1683.

Thiền sư họ Tạ, tự Hoán Bích (người Trung Quốc), theo thuyền buôn đến phủ Quy Ninh (nay thuộc tỉnh Bình Định) năm 30 tuổi. Sau chùa Thập Tháp, thiền sư Nguyên Thiều ra đất Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, chùa Quốc Ân, tháp Phổ Đồng rồi mất tại đó. Tên chùa Thập Tháp là do nguyên trước đây trên khu đồi xây dựng chùa có 10 ngôi tháp Chăm đã sụp đổ. Ban đầu, chùa Thập Tháp được xây dựng từ gạch của 10 ngôi tháp cổ này.

25 thg 10, 2013

Chuyện ông Đỏ, ông Đen

Chùa Nhạn Sơn (thôn Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, TX.An Nhơn, Bình Định) có 2 pho tượng đá cổ, cao khoảng 2,8 m, được người dân địa phương cho rằng rất linh thiêng.

Hai pho tượng ông Đỏ, ông Đen trong chùa Nhạn Sơn - Ảnh: Hoàng Trọng 

Truyền thuyết Song nghĩa tự

Theo hòa thượng Thích Thị Hoàng, trụ trì chùa Nhạn Sơn, hai pho tượng cổ này có từ thời người Chiêm Thành (người Chăm) còn đóng đô ở thành Đồ Bàn (thuộc xã Nhơn Hậu). Do chiến tranh, hai pho tượng đã bị chôn vùi trong lòng đất hàng trăm năm. Sau đó, mưa nắng xói mòn nên hai búi tóc của các pho tượng lộ dần lên khỏi mặt đất. Trẻ con chăn bò thấy lạ đào bới, phát hiện tai, mũi, mắt, miệng, rồi dân làng đào lên được 2 pho tượng liền lập chùa để thờ lấy tên là Thạch tự công, nghĩa là chùa thờ ông Đá. Thời gian sau, người dân biết câu chuyện lý giải về 2 pho tượng đá này nên đổi tên chùa thành Song nghĩa tự, tức là chùa thờ hai anh em kết nghĩa.

Làng chài được yểm bùa

Làng chài Hải Giang (xã Nhơn Hải, TP.Quy Nhơn, Bình Định) có nhiều dấu tích của người Chăm đến nay vẫn chưa được giải mã. Nhiều người cho rằng đó là những lá bùa để giữ đất, giữ làng.

Pho tượng cổ bí hiểm


Pho tượng cổ ở Hải Giang được người dân mặc áo vàng, thờ chung với các vị Phật, bồ tát - Ảnh: Hoàng Trọng 

Điểm đến hấp dẫn nhất ở Hải Giang là chùa Linh Sơn, nơi thờ pho tượng cổ bằng đá mà dân gian quen gọi là tượng Phật Lồi. Pho tượng có hình dáng một vị tu sĩ trong tư thế ngồi thiền, tay trái đặt lên đùi, tay phải cầm tràng hạt, mình trần, thân đeo một mảnh vải vắt chéo qua vai trái. Tượng cao 0,82 m, ngang 0,46 m. Đặc biệt, lưng tượng là một tấm bia hình ngũ giác (cao 60 cm, rộng 45 cm), có 12 dòng chữ Chăm cổ đến nay vẫn chưa ai đọc được.

Thung Nham, đất lành chim đậu

Thung Nham ở Ninh Bình còn được biết đến với tên gọi Thung Chim, nơi trú ngụ của hàng nghìn con chim các loại.

Trong khi Tràng An, Tam Cốc - Bích Động là những điểm đến đã trở nên quen thuộc, thì Thung Nham dường như vẫn là cái tên còn khá xa lạ với du khách đến với Ninh Bình. Tuy nhiên, nếu bạn yêu thích phong cảnh thiên nhiên trữ tình của hai danh thắng từng được ví là “Hạ Long trên cạn” của vùng đất cố đô, chắc hẳn, vẻ đẹp nên thơ của Thung Nham sẽ không làm bạn thất vọng. 

Vẻ đẹp trữ tình của Thung Nhai. Ảnh: vuonchimthungnham. 


Tây Côn Lĩnh, nóc nhà Đông Bắc

Với độ cao 2.427 m, Tây Côn Lĩnh là một trong những ngọn núi cao nhất Việt Nam, là nóc nhà của núi rừng Đông Bắc.

Tây Côn Lĩnh là dãy núi nằm ở phía Tây Hà Giang, trải dải trên hai huyện Hoàng Su Phì và Vị Xuyên. Tuy không phải là ngọn núi cao nhất Việt Nam nhưng việc chinh phục được nóc nhà Đông Bắc dường như khó khăn hơn nhiều lần so với đỉnh Fansipan cao vời vợi. Bởi lẽ, đường lên đỉnh Tây Côn Lĩnh rất xa xôi, cách trở, lại chưa được định hình thành tuyến như cung đường chinh phục nóc nhà Đông Dương, vốn xuất phát ngay gần thị trấn du lịch Sapa.

Theo kinh nghiệm từ những người đi trước, bạn có thể bắt đầu từ cửa khẩu Thanh Thủy ở huyện Vị Xuyên, cách thành phố Hà Giang hơn 20 km về phía Tây Bắc, đến ngã ba Xín Chải rồi hỏi đường người dân địa phương để lên được đỉnh Tây Côn Lĩnh. Ngoài ra, bạn cũng có thể xuất phát từ huyện Hoàng Su Phì với cung đường qua Tùng Sán – Trúng Phúng và từ đây lên nóc nhà Đông Dương. 


Chinh phục được đỉnh Tây Côn Lĩnh là niềm tự hào của bất kỳ ai. Ảnh: vtc 


Miếu bà Chúa xứ Thủy Tề

Du khách đến Bạc Liêu cúng bà Nam Hải thường viếng thăm miếu Chúa Xứ Thủy Tề cách đó không xa. Miếu Bà tọa lạc trên một sở đất rộng, thoáng đãng và sạch sẽ, thuộc phường Nhà Mát, thị xã Bạc Liêu. Ngôi miếu này được xây dựng vào năm 1919 bắt nguồn từ những huyền thoại và tín ngưỡng bản địa của cư dân ven biển Bạc Liêu.

Bàn thờ hai Bà ở gian chính điện. 

Một thoáng Vinh Sang

Nằm trên cù lao An Bình quanh năm cây trái xanh tốt, Khu du lịch (KDL) Vinh Sang như một “đồng bằng sông Cửu Long thu nhỏ” với các dịch vụ du lịch gắn liền cùng các hoạt động bình dị trong đời sống của người dân vùng sông nước miền Tây Nam Bộ.

Từ trung tâm thành phố Vĩnh Long, du khách di chuyển bằng phà An Bình mất khoảng 10 phút và dạo bộ qua những cung đường trải bê tông bóng mịn để đến Vinh Sang. Đường vào KDL Vinh Sang uốn lượn dưới bóng mát của hàng chục loài cây ăn trái. Nếu đi bằng đường thủy, du khách có thể thuê tàu, thuyền của các công ty du lịch hoặc tư nhân trên bến phà An Bình, trên dòng Cổ Chiên, ngắm nhìn sông nước miền Tây.

KDL Vinh Sang thuộc xã An Bình (huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long) được thành lập năm 2005 với tổng diện tích 2,2 ha, do một doanh nhân địa phương đầu tư nhằm khai thác tiềm năng du lịch miệt vườn theo hướng chuyên nghiệp. Địa hình của Vinh Sang như một tam giác, một cạnh nằm cặp theo bờ sông Cổ Chiên, đối diện với thành phố Vĩnh Long. Một cạnh khác chếch sang hướng Bắc, nơi có cây cầu Mỹ Thuận duyên dáng nối đôi bờ sông Tiền thơ mộng. Cạnh còn lại nối Vinh Sang với các khu vườn trái cây khác trong cù lao An Bình. Đó là điểm đắc địa giúp Vinh Sang có cảnh quan hấp dẫn, thu hút nhiều khách du lịch ngay từ ngày đầu hoạt động. 

Du khách tham quan cảnh quan sông nước miền Tây từ những chiếc thuyền đưa đón mang kiểu dáng đặc trưng của miền quê sông nước miền Tây Nam Bộ.

23 thg 10, 2013

Ngược sông Mã đến thăm Mường Lát

Là dòng sông gắn với nhiều huyền thoại xứ Thanh, sông Mã nổi tiếng không chỉ nhờ vẻ đẹp nên thơ mà còn bởi sự hung hãn khôn cùng của nó. Khởi nguồn từ miền Tây Bắc Tổ quốc, sông uốn một vòng hơn trăm cây số trên đất Sầm Nưa nước Lào rồi mới trở về đất Việt.

Dọc theo đường sông chảy từ huyện Mường Lát đến Cửa Hới tỉnh Thanh Hóa, những địa danh gắn với bài thơ Tây Tiến luôn thôi thúc giới yêu thích khám phá được một lần đặt chân đến.

Chuyện buồn vui bên sông

Đường 15

Từ thị trấn Mai Châu (Hòa Bình), đoạn đường đến đất Thanh Hóa khá hẹp và quanh co, một bên là núi cao, một bên là từng mảng rừng rời rạc cằn cỗi. Sang mạn Quan Hóa, Bá Thước một bên sông Mã một bên núi cao, cảnh sắc trở nên hoang vu và đẹp hơn hẳn dẫu rằng cái hiểm ác của thời Tây Tiến đã không còn nữa.


Xốt vang Hà Nội, xốt vang Hội An

Món bò xốt vang chắc chắn được du nhập từ nước Pháp khi Việt Nam còn là xứ thuộc địa của thực dân Pháp; nhưng cũng giống như nhiều món ăn khác có nguồn gốc từ Pháp, bò xốt vang đã dần dà được bản địa hóa để phù hợp với khẩu vị và gia vị của người Việt.

Bò xốt vang kiểu Hà Nội

Về nguyên liệu căn bản, món bò xốt vang của người Việt cũng phải gồm thịt bò và rượu vang (đỏ hoặc trắng) như nguyên gốc, cũng không thể thiếu các loại rau củ là khoai tây, cà rốt, cà chua, hành tây nhưng gia vị tẩm ướp và nêm nếm thì có thêm nhiều thứ đặc trưng bản địa như hồi, quế, rau húng, gừng và cả… nước mắm.