24 thg 6, 2017

Tiểu Vương cung thánh đường Phú Nhai

Được xây dựng trên diện tích hàng nghìn mét vuông, Vương cung thánh đường Phú Nhai nằm trên địa phận xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường (Nam Định) là một trong những nhà thờ đẹp nhất Việt Nam với lối kiến trúc Gothic kiểu Pháp hùng vĩ. 

Nhà thờ Phú Nhai nguyên thủy được tạo dựng bằng gỗ, lợp bồi do linh mục Chính xứ Emmanuel Rianô Hòa cho xây dựng vào năm 1866. Vào năm 1881, Giám mục Hòa cùng với linh mục Barquerô Ninh xây nhà thờ thứ hai theo kiến trúc Á Đông và hai tháp chuông. Sau thời gian bị chiến tranh làm hư hại, vào ngày 17/3/2003 Nhà thờ đã được khởi công trùng tu tôn tạo lại bởi Giám mục Đaminh Nguyễn Chu Trinh. Đến 26/9/2004 thì Nhà thờ Phú Nhai hoàn thành như diện mạo hiện nay.

Nhà thờ Phú Nhai có chiều dài 80m, rộng 35m, chiều cao là 30m. Đặc biệt, Nhà thờ Phú Nhai có hai tháp chuông cao 44m ở phía trước với 4 quả chuông được đúc từ Pháp chuyển sang, trong đó có quả nặng 2 tấn chỉ sử dụng trong các dịp đại lễ.

Tiểu Vương cung thánh đường Phú Nhai.

23 thg 6, 2017

Mẹ Quan Âm - Bạc Liêu

Từ lâu lắm rồi, tôi vẫn nghe nhiều người đến Bạc Liêu để viếng Mẹ Quan Âm. Ở đó, nơi ven biển có tượng Phật Bà Quan Âm đứng nhìn ra biển, che chở ngư dân được bình an, qua khỏi những cơn sóng gió. Người dân ở đây gọi tượng đài bằng cái tên kính yêu và thân thiết: Mẹ Quan ÂmRồi người nối người, những khách phương xa, không phải ngư dân cũng đến đây khấn cầu sự bình an trong cuộc sống, trong tâm hồn. Mẹ Quan Âm hiền từ đứng uy nghiêm day mặt ra biển che chở chúng sinh.

Tượng Bồ tát Quán Thế Âm được xây dựng từ năm 1973 ở 
ấp Nhà Mát xã Hiệp Thành (nay là phường Nhà Mát, TP Bạc Liêu), cơ bản hoàn thành vào đầu năm 1975. Tượng cao 11 mét (chưa kể chân đế), đứng sừng sững bên bờ biển Đông, sát mé biển và mặt xoay ra biển.Tượng đài tuy giản đơn, nhưng cảnh quan rất hùng vĩ và trang nghiêm dễ gây sự chú ý và ngưỡng mộ cho mọi người.

Tôi vẫn mong một ngày đến ngắm nhìn cảnh quan thiêng liêng này. Mãi đến tháng 4/2017 mới có dịp...

Tượng Mẹ Quan Âm

Rau tầm bóp Mộc Châu - ăn một lần là nhớ mãi

Đến Mộc Châu, được say trong những chén rượu ngô nồng ấm, được thưởng thức gà đồi, bê chao và các loại rau rừng mà chưa ăn rau tầm bóp thì mất đi một trải nghiệm đáng nhớ.

Rau tầm bóp. Ảnh.Hoàng Huế 

Tầm bóp là một loại cây mọc hoang khắp các cánh đồng, bãi đất hoang hoặc các sườn đồi. Thời chiến tranh, tầm bóp là loại rau “cứu đói” cho bộ đội và người dân. Sau đó, người dân trên các vùng núi như Mộc Châu gom hạt giống và gieo trồng như một loại rau.

Người dân ở vùng đồng bằng biết đến rau tầm bóp nhưng không ăn thường xuyên, thậm chí đến nay còn không ăn rau tầm bóp. Nhưng với bà con vùng núi, tầm bóp là loại rau ăn hàng ngày và ở một số vùng như Mộc Châu còn trở thành món ăn đặc sản. 

Cá mòi nướng lá bưởi đậm đà hồn quê sông Hồng

Món cá mòi nướng lá bưởi đậm đà hồn quê, đậm hồn sóng nước sông Hồng. Và chỉ có cá mòi được đánh bắt tại sông Hồng, nhất là khúc sông chảy qua địa phận tỉnh Hưng Yên, mới là loài cá trứ danh, thơm ngon hơn hẳn. 

Đến hẹn lại lên, mùa xuân, cá mòi ngược dòng từ biển về sông Hồng. Chỉ có cá mòi được đánh bắt tại sông Hồng, nhất là khúc sông chảy qua địa phận tỉnh Hưng Yên, mới là loài cá trứ danh, thơm ngon hơn hẳn cá mòi đánh bắt ở biển và các dòng sông khác. Thế nên, cá mòi dường như trở thành đặc sản của Hưng Yên, gắn liền với cuộc sống nơi đây.

Cá mòi có thể được chế biến thành nhiều món ngon như nấu su hào, rán, cuộn chả, nướng lá bưởi… Món cá mòi nướng lá bưởi là món ăn đậm hồn quê, đậm hồn sóng nước sông Hồng.

Xưa, ngư dân bắt được cá mòi phần đem ra chợ bán, phần để dùng. Họ rửa sạch, bỏ mang và ruột cá, xong đem lá bưởi tươi ốp vào mình cá rồi nướng trực tiếp trên than hồng để đãi bạn bè, hàng xóm. Cá bắt được đem nướng là món ngon nhất, tươi nhất. Món ăn dân dã đó được gìn giữ bao đời, và đến nay trở thành đặc sản của Hưng Yên. 

Cá mòi mình dẹt, mỏng và ánh bạc, đã được làm sạch, ướp sơ để đem nướng. Ảnh: Hoàng Huế 

Chùa Phật Tổ ở Cà Mau

Chùa Phật Tổ tọa lạc tại phường 4, Tp. Cà Mau, được xây dựng vào năm 1840. Đây là một công trình kiến trúc tôn giáo truyền thống và là nơi truyền Phật pháp sớm nhất ở vùng đất Cà Mau. 

Nguyên cách gọi tên chùa Phật Tổ là do sự tôn kính từ lâu đời của người dân vùng Cà Mau với vị Hòa thượng lập dựng Chùa: Hòa thượng Thích Trí Tâm.

Vào khoảng năm 1840, vùng Cà Mau còn là vùng đất lau sậy, hoang sơ. Người dân địa phương kể rằng, thời đó có chàng trai Tô Quang Xuân đi lấy củi trong rừng, khi rìu bổ vào thân cây bồ đề cổ thụ thì thấy lộ ra một quyển kinh Phật đặt ở gốc cây. Từ đó chàng trai dựng am vừa tu vừa bốc thuốc chữa bệnh cho dân bên bờ kênh Quản Lộ. Tô Quang Xuân tụng kinh Kim Cương cảm hóa được thú dữ. Thiên hạ biết tiếng kéo đến xin thuốc và học đạo rất đông.

Về sau, nhờ người dân đóng góp tài vật, Tô Quang Xuân dựng được một ngôi chùa bằng lá đơn sơ. Thấy vậy, hương hào Đỗ Văn Viễn trong vùng ghen ghét đã vu cho ông là gian đạo sĩ. Ông bị quan trên bắt về Sài Gòn (nay là Tp. Hồ Chí Minh) quản thúc.

Lễ cầu mưa của đồng bào Gia Rai ở Tây Nguyên

Vào tháng 3 – 5 hàng năm, khi Tây Nguyên vào mùa khô khát, đồng bào dân tộc Gia Rai ở tỉnh Kon Tum lại tiến hành làm lễ cầu mưa xin các thần linh ban mưa xuống. Lễ hội đặc sắc này vừa được phục dựng tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam ở Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội để phục vụ khách du lịch và công chúng tìm hiểu.

Theo những già làng đến từ các buôn người Gia Rai cho biết, trước khi làm lễ cầu mưa, bà con tổ chức họp và phân công nhiệm vụ cho các thành viên. Nhiệm vụ của đàn ông là lên rừng khai thác nguyên vật liệu để làm cây nêu và đi phát dọn ngoài bờ suối nơi tiến hành làm lễ cầu khấn các thần. Còn phụ nữ thì đi hái các loại rau rừng để chế biến các món ăn truyền thống dùng trong tiệc rượu của lễ hội.

Sau khi công tác chuẩn bị đã hoàn tất, già làng đánh trống tập trung toàn bộ dân làng đến nhà rông để làm lễ khấn thần linh. Tại đây, già làng sẽ cùng các thanh niên to khỏe lấy tiết các con vật hiến sinh (thường là lợn, gà) cùng ghè rượu cần linh thiêng để bắt đầu làm lễ tế. Già làng sẽ lấy phần gan và tiết của con vật hiến tế đặt trên tai ghè rượu cầu khấn các thần linh, vừa khấn già làng vừa rót rượu vào bầu nước đã đập vỡ một nửa, đồng thời lúc này dân làng hú to vang dội cả núi rừng.

Già làng tiến hành nghi lễ khấn thần linh tại nhà rông.

Bộ sưu tập cổ vật của Vương Hồng Sển

Vương Hồng Sển (1902-1996) là một nhà văn hóa và sưu tầm cổ vật nổi tiếng ở Nam Bộ. Sau khi mất, ông đã hiến tặng toàn bộ 849 cổ vật và sách sưu tầm của mình cho Nhà nước. Bộ sưu tập cổ vật của Vương Hồng Sển có giá trị độc đáo với nhiều chất liệu khác nhau: gốm sứ, đồng, gỗ, thủy tinh, ngà, sừng, đồi mồi... Trong đó có nhiều cổ vật của Việt Nam, Thái Lan, Nhật Bản, Trung Quốc và một số nước châu Âu. 

Giới nghiên cứu lịch sử và cổ vật cả nước đều đánh giá cao sự dày công trong quá trình lưu giữ các cổ vật, cùng nhiều công trình nghiên cứu về Sài Gòn xưa của nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển. Trong bộ sưu tầm cổ vật của mình, đồ sứ men lam Huế chính là chủng loại ông ưa thích nhất.

Ngược dòng lịch sử, vào thế kỷ 17-18, nhà cầm quyền Đàng Ngoài và Đàng Trong cho rằng gốm sứ Trung Quốc có chất lượng tốt nên đã đặt các lò gốm tại trấn Cảnh Đức, tỉnh Giang Tây sản xuất để sử dụng trong hoàng cung, phủ chúa. Theo yêu cầu của chúa Trịnh - chúa Nguyễn, gốm sứ Trung Quốc được sản xuất là những sản phẩm đồ đựng, đồ trang trí cao cấp, men xanh trắng vẽ phong cảnh, đồ án, tích truyện, thơ chữ Hán, chữ Nôm hàm chứa nhiều ý tưởng, ẩn dụ tốt đẹp.

Du khách nước ngoài tham quan bộ sưu tập cổ vật của Vương Hồng Sển.

22 thg 6, 2017

Vãn cảnh chùa Châu Thới

Nằm giữa một vùng đồng bằng rộng lớn ở khu vực giáp ranh các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Tp. Hồ Chí Minh, chùa Châu Thới nằm trên núi Châu Thới (xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương) là một di tích và thắng cảnh đẹp nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên thơ mộng cùng lối kiến trúc và nhiều hiện vật đặc sắc về Phật giáo, thu hút du khách khắp nơi đến tìm hiểu, khám phá. 

Hình thành từ năm 1681, chùa Châu Thới được coi là ngôi chùa cổ nhất Bình Dương. Ban đầu, chùa chỉ là một thảo am nhỏ do thiền sư Khánh Long dựng lên. Hơn 330 năm qua, nhờ công đức Phật tử bốn phương, chùa Châu Thới đã trở thành một ngôi chùa lớn và có kiến trúc độc đáo như bây giờ.

Chùa nằm trên núi Châu Thới, ở độ cao 82 m so với mực nước biển, xung quanh cây cối xanh tốt. Vì xung quanh là đồng bằng nên vào những hôm thời tiết tốt, đứng cách xa hàng chục cây số vẫn có thể dễ dàng nhận ra ngôi chùa độc đáo này bằng mắt thường.

Vì tọa lạc trên núi nên để lên chùa Châu Thới, du khách có thể theo hai con đường, một là đi bộ lên 220 bậc xi măng; hai là từ dưới đường chạy xe thêm một đoạn sẽ thấy con đường dành cho xe đi thẳng lên núi. Riêng những bậc làm bằng xi măng này được các chư tăng xây đắp lên từ năm 1971. Thường thì du khách sẽ chọn phương án đi bộ lên núi theo những bậc tam cấp để vừa đi vừa vãn cảnh và có thời gian để chiêm nghiệm trong không gian thoáng đãng của hàng cây tỏa bóng mát hai bên.

Con đường gồm 220 bậc tam cấp dẫn lối lên chùa Châu Thới quanh năm rợp bóng cây xanh mát.

Biển trời Cô Tô

Tọa lạc ở phía Đông của tỉnh Quảng Ninh, đảo Cô Tô là điểm đến lý tưởng dành cho du khách khám phá vẻ đẹp hoang sơ với bãi biển cát trắng trải dài trong ngày hè. 

Ngày hè tháng 6 chúng tôi theo chân một nhóm bạn trẻ đến du lịch đảo Cô Tô do Công ty cổ phần Du lịch Chung tổ chức. Được biết Công ty này hướng đến các sản phẩm Đi Chơi Chung dành cho những người trẻ đam mê du lịch với chi phí tiết kiệm, mà vẫn đảm bảo tiện nghi khi sử dụng dịch vụ tại các điểm đến hấp dẫn của Việt Nam và thế giới.

Chúng tôi bắt đầu lên tàu cao tốc từ cảng Cái Rồng đến đảo Cô Tô với mức giá khoảng 200.000/người. Từ cầu cảng, ngồi trên xe điện đi qua trung tâm thị trấn Cô Tô, chúng tôi thấy nhiều nhà hàng, khách sạn được xây dựng để phục khách du lịch. Chúng tôi dừng chân nghỉ tại Cô Tô mini resort, có 17 phòng ở theo kiểu những ngôi nhà gỗ nhỏ xinh hướng ra bãi biển Hồng Vàn có giá từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000/phòng. 

Du khách lên tàu cao tốc để chuẩn bị ra đảo Cô Tô.

Hoàng Sa và Trường Sa trên Cửu đỉnh ở Huế

Cửu đỉnh Huế không chỉ là báu vật quốc gia thể hiện cho quyền uy và sức mạnh của vương triều nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, mà còn được đánh giá là một bộ dư địa chí, một bộ bách khoa thư độc đáo về Việt Nam hồi đầu thế kỉ 19. Đặc biệt, trên Cửu đỉnh nhiều địa danh sông núi, biển đảo... của đất nước được thể hiện rất rõ ràng, minh xác. Điều đó cho thấy cha ông ta ngày trước rất ý thức về chủ quyền quốc gia, trong đó có vấn đề biển đảo.

Thời phong kiến, ở những nước Á Đông như Việt Nam, đỉnh được xem là thứ bảo vật, tượng trưng cho quyền lực thống trị của nhà vua. Hiện ở cố đô Huế vẫn còn tồn tại bộ Cửu đỉnh (9 đỉnh đồng) có từ thời nhà Nguyễn, và đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia vào năm 2012. 

Cửu đỉnh của nhà Nguyễn được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa Đông năm 1835 và hoàn thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1837. Cả thảy gồm có 9 cái đỉnh lớn bằng đồng, đặt ở trước sân Thế Miếu (miếu thờ các vị vua triều Nguyễn) trong Hoàng thành Huế. Mỗi đỉnh tượng trưng cho một vị vua triều Nguyễn và được đặt tên ứng với thuỵ hiệu (tên của vua sau khi băng hà) của vị vua ấy. Ví dụ như Cao đỉnh tượng trưng cho vua Gia Long được đặt theo thụy hiệu Cao Hoàng đế, Nhân đỉnh tượng trưng cho vua Minh Mạng được đặt theo thụy hiệu Nhân Hoàng đế... 

Cửu đỉnh đặt ở dưới thềm Hiển Lâm Các (phía trước sân Thế miếu) trong Hoàng thành Huế. Ảnh: Trần Thanh Giang