11 thg 2, 2013

Về Vàm Sát

Được bao bọc bởi các con sông Vàm Sát, Dinh Bà, Lò Rèn, Gốc Tre, Khu du lịch sinh thái rừng ngập mặn Vàm Sát, thuộc Khu dự trữ sinh quyển Thế giới rừng ngập mặn Cần Giờ có những cánh rừng đẹp được Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) của Liên hợp quốc công nhận là một trong hai khu du lịch sinh thái phát triển bền vững của thế giới tại Việt Nam.

Thành lập năm 2000, Khu Du lịch Sinh thái Vàm Sát do Công ty Dịch vụ Du lịch Phú Thọ quản lí đã xây dựng theo hướng môi trường tự nhiên để có thể bảo tồn và phát triển một hệ động thực vật phong phú. Bằng đường bộ lẫn đường thủy, du khách đều có thể khám phá những sự kì thú về thiên nhiên của nơi này. 


Khu Du lịch sinh thái Vàm Sát có diện tích hơn 1.862 ha với gần 140 loài thực vật thuộc hơn 60 họ. Trong đó, chiếm ưu thế là rừng đước, rừng mắm… Vàm Sát nổi tiếng có nhiều tôm, cua, sò và nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá chẻm, cá ngát, cá dứa. Bên cạnh đó, Vàm Sát còn có nhiều loại động vật quý như trăn, cá sấu, kì đà, khỉ, heo rừng, rái cá… 


Đặc biệt, sân chim Vàm Sát có hàng ngàn con cò, vạc, cồng cộc. Sân chim Vàm Sát có diện tích hơn 700 ha. Trong đó vùng lõi gần 200 ha, vùng đệm 500 ha. Vì thế, cách xa cả cây số, những âm thanh náo nhiệt của lũ chim đã vọng đến tai du khách về thăm Vàm Sát. 



Ngã ba sông Vàm Sát. Ảnh: Nguyễn Luân 

10 thg 2, 2013

Bí ẩn mồ ma Đống Thếch

Ở xã Vĩnh Đồng, huyện Kim Bôi, cách trung tâm thành phố Hoà Bình chừng hơn 20 cây số về phía Đông Nam, có khu mộ cổ Đống Thếch của dòng họ Đinh, một dòng họ quan lang có thế lực của người Mường Động xưa… được đánh giá là một di chỉ khảo cổ và văn hóa có giá trị đặc sắc.

Khu mộ cổ Đống Thếch nằm ở đầu thung lũng Mường Động, một thung lũng nhỏ quang đãng, bằng phẳng, trong đó nhấp nhô hàng trăm bia mộ được làm bằng các tảng đá trồng chỉa thẳng lên trời. Vây quanh ba mặt khu mộ là những quả đồi thấp. Theo cách lí giải của cư dân trong vùng, trong tiếng Mường, “Đống” là nơi mồ mả, chôn cất người chết, “Thếch” là địa danh chỉ vùng đất, vì thế khu mộ này mới có tên là Đống Thếch.

Khu mộ cổ Đống Thếch của dòng họ Đinh nằm trong một thung lũng nhỏ và bằng phẳng ở Mường Động.

Động Ngườm Ngao

Từ thị xã Cao Bằng (tỉnh Cao Bằng), theo con đường dài hơn 60km, vượt qua đèo Mã Phục, đèo Khau Liêu để đến thị trấn Trùng Khánh, đi thêm 26 cây số nữa đến Bản Giốc, cách Bản Giốc 3km là động Ngườm Ngao (bản Gun, xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng).

“Ngườm Ngao” theo tiếng Tày có nghĩa là động hổ (Ngườm: động, Ngao: hổ), vì tương truyền ngày xưa trong động này có nhiều hổ dữ sinh sống. Nhưng cũng có người cho rằng động hổ bắt nguồn từ tiếng suối chảy trong động tạo ra tiếng kêu, gầm như con hổ dữ. Động cũng có tên gọi là động Gió bởi trong động có dòng suối ngầm chảy mạnh tạo ra luồng gió và tiếng ầm ầm dội vào các vách núi. Năm 1921, một số viên quan người Pháp và Việt Nam khi đến thăm thác Bản Giốc đã phát hiện ra động này. 

Nhiệt độ trong động từ 18 đến 25 độ C, mùa hè cho cảm giác mát mẻ, còn mùa đông ấm áp. Động có chiều dài 2.144m, gồm 3 cửa chính: Ngườm Ngao, Ngườm Lồm (hang gió) và Ngườm Bản Thuôn. Hiện nay, lối ra vào chính đi qua cửa Ngườm Ngao gần bản Gun. Từ đây, khách tham quan có thể vào sâu bên trong động đến gần 1km.

Đường vào động Ngườm Ngao.

Khám phá hồ Định Bình

Hồ Định Bình ở vùng thượng nguồn sông Côn, giữa đại ngàn hùng vĩ thuộc huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định. Hồ cách thành phố Quy Nhơn khoảng 70 km về hướng Tây, nằm trong tuyến du lịch tham quan các di tích lịch sử, danh thắng vùng đất võ Tây Sơn, quê hương người anh hùng áo vải kiệt xuất Nguyễn Huệ (1753 - 1792) cùng những di sản vô giá của Vương quốc Chămpa tồn tại khoảng 500 năm trên mảnh đất này.

Để đến với hồ Định Bình, du khách khởi hành từ thành phố Quy Nhơn theo hướng Tây, ngược dòng sông Côn về phía thượng nguồn. Đường đi uốn lượn giữa những cánh đồng xanh lúa, xanh cây trái. Thấp thoáng nơi xa xa, những ngôi tháp Chăm cổ kính, huyền bí sừng sững trên đồi cao. Suốt đường đi, du khách đắm chìm vào những câu chuyện của người hướng dẫn viên về sông Côn, dòng sông lớn nhất tỉnh, gắn với bao đổi dời của vùng “địa linh, nhân kiệt”. 

Toàn cảnh Hồ Định Bình. Ảnh: Lê Minh.

Miền cao Ý Tý

Ý Tý là xã vùng cao của huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, không chỉ đẹp bởi được mệnh danh là “vùng đất sương mù” và có những cánh rừng nguyên sinh độc đáo mà còn là một điểm du lịch quyến rũ mang đậm bản sắc của các dân tộc vùng cao Tây Bắc.

Rời sân ga Lào Cai, du khách đi xe ô tô lên thị trấn Bát Xát rồi từ đó men theo các đường núi khoảng 70km là đến Ý Tý. Đó là một thung lũng nằm ở độ cao trên 2.000m, lưng tựa vào dãy núi Nhù Cù San, đỉnh núi cao tới 2.660m, gần như quanh năm mây phủ. Đi ô tô, bạn có thể nhìn thấy lưng chừng núi những con đường mòn ngoằn ngoèo rồi hút dần trong đám lá rừng, những ngôi nhà thấp thoáng trong mây. Ý Tý đẹp bởi mây, bởi núi và cũng rực rỡ với những thửa ruộng bậc thang trồng lúa. Xã Ý Tý có 15 bản với 4 dân tộc là Hà Nhì, Dao, Mông và người Kinh ở trung tâm thị trấn; trong đó nhiều nhất là người Hà Nhì.

Bản vùng cao Ý Tý.

Chùa Phật Tích

Trên sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi là núi Lạn Kha) ở xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh có một ngôi chùa cổ mang tên là chùa Phật Tích, hiệu là Vạn Phúc tự. Chùa nổi tiếng với kiến trúc đẹp, cảnh sắc thanh tịnh, và đặc biệt là bộ tượng đá quý hiếm mang đặc trưng nghệ thuật điêu khắc thời Lý.

Theo các tài liệu cổ, chùa Phật Tích được khởi dựng vào khoảng thế kỉ VII. Đến năm 1066, vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) cho xây dựng thêm tòa tháp Phật Tích kì vĩ, cao khoảng 40m ở sườn phía Nam núi Lạn Kha.

Tương truyền, sau khi tòa tháp đổ, bên trong lộ ra một pho tượng Phật A di đà tạc bằng đá xanh nguyên khối. Trước hiện tượng kì lạ này, xóm Hỏa Kê cạnh chùa đã đổi tên thành thôn Phật Tích.

Qua nhiều triều đại, chùa đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Năm 1947, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh và đã thiêu rụi chùa. Từ 1954 đến nay, chùa được khôi phục dần. Tháng 4 năm 1962, chùa được nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia.

Chùa Phật Tích nằm nép mình bên sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi là núi Lạn Kha).

Nơi lưu giữ dấu ấn văn hóa Chăm

Trung tâm trưng bày văn hóa Chăm Bình Thuận mặc dù mới đi vào hoạt động nhưng đã trở thành một địa chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực bảo tồn, lưu giữ và giới thiệu những hiện vật, di sản đặc trưng về đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc Chăm...

Trung tâm trưng bày văn hóa Chăm Bình Thuận (TTVHC) có tổng diện tích gần 3500m2, tọa lạc ngay bên cạnh Quốc lộ I, thuộc địa phận làng Palei Dhaong Panan, nay là thôn Bình Tiến, xã Phan Hiệp, huyện Bắc Bình, cách thành phố Phan Thiết hơn 65km về hướng Nam.

TTVHC trưng bày hàng trăm hiện vật văn hóa Chăm như tượng thần Siva, vũ nữ Apsara, vua Po Rome, Po Anit… bằng nhiều loại chất liệu khác nhau như composite, kim loại, gốm, gỗ, vải... cùng hàng trăm hình ảnh mô tả, tái hiện lại những lễ hội, phong tục, tập quán của cộng đồng người Chăm ở Bình Thuận. Các hiện vật được trưng bày thành nhiều khu vực khác nhau theo chủ đề như: khu sưu tập di sản văn hóa hoàng tộc Chăm; khu trưng bày nông, ngư cụ truyền thống của người Chăm; khu trưng bày và trình diễn làng nghề gốm; khu trưng bày các loại nguyên liệu, công cụ, sản phẩm dệt thủ công cổ truyền…

Yếm của vua Chăm Po Klong Mơ Nai.

Những pho sử đá

Sau mộc bản Triều Nguyễn, hệ thống 82 tấm bia tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới vào tháng 3 năm 2010. Đây là nơi lưu giữ đầy đủ và rõ ràng nhất về lịch sử khoa cử của các triều đại phong kiến Việt Nam. 

Bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám gồm 82 tấm bia đá, được dựng từ năm 1484 (niên hiệu Hồng Đức thứ 15) đến năm 1780 (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 41). Bia là nơi ghi danh những người đỗ tiến sĩ Nho học của các khoa thi Đình từ năm 1442 (niên hiêu Đại Bảo thứ 3) đến năm 1779 (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40).

Theo Đại Việt sử kí toàn thư, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, vua Lý Thánh Tông cho khởi công xây dựng Văn Miếu ở phía Nam kinh thành Thăng Long để thờ các bậc thánh hiền, các bậc nho gia có công với nước. Trong đó có thờ Khổng Tử, người sáng lập ra nền Nho giáo phương Đông và Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Năm 1076, cũng tại nơi đây, vua Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của Việt Nam bên cạnh Văn Miếu để làm nơi đào tạo nhân tài cho đất nước.

Lăng đá cổ Hiệp Hòa

Các triều đại phong kiến của Việt Nam đã để lại khá nhiều di sản kiến trúc có giá trị, trong đó có hệ thống lăng mộ làm bằng đá của các bậc quan lại. Hiện nay, ở huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang vẫn còn lại 26 khu lăng mộ thuộc loại này và đã sớm được công nhận là Di tích Văn hóa cấp Quốc gia, điển hình như lăng Dinh Hương, lăng họ Ngọ... 

Lăng họ Ngọ (còn gọi là Linh Quang từ) được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697) ở làng Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa. Đây là nơi lưu giữ di hài Quận công Ngọ Công Quế, một võ quan nổi tiếng dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 - 1705). Lăng được xây khi Quận công Ngọ Công Quế còn sống.

Tượng người và ngựa đá đứng chầu ở lăng họ Ngọ.

Thanh âm đại ngàn

Ai đã một lần lên Tây Nguyên, nghe tiếng cồng chiêng âm vang đầy huyền bí bên ánh lửa bập bùng giữa đại ngàn mới thấy được hết sức sống mãnh liệt và kì diệu của con người nơi đây. Chẳng thế mà có người đã ví, cồng chiêng là “linh hồn” của người Tây Nguyên.

Vậy là đã gần 6 năm kể từ ngày Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là Kiệt tác Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của nhân loại (25/11/2005). Sáu năm là quãng thời gian chưa phải đã là dài, nhưng cũng không phải là quá ngắn, để chúng ta có được một cái nhìn đầy đủ và thực tế hơn về di sản đặc biệt này, nhất là trong bối cảnh cuộc sống ở Tây Nguyên đang có nhiều thay đổi lớn như hiện nay.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc biệt này không ai khác chính là cư dân các dân tộc sinh sống ở Tây Nguyên như: Bana, Xêđăng, Mnông, Cơho, Rơmăm, Êđê, Giarai... 

Âm vang cồng chiêng Tây Nguyên. Ảnh: Minh Quốc