14 thg 2, 2013

Cầu ngói chùa Lương

Trải qua hơn 400 năm tồn tại, cây cầu ngói chùa Lương ở xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định vẫn tồn tại khá nguyên vẹn với những đường nét kiến trúc cổ kính và độc đáo mang đặc trưng của thời kì thế kỉ XVII – XVIII , thể hiện rõ nét sự tài hoa của những người thợ xứ Thành Nam xưa.

Cầu nằm cách chùa Lương (xã Hải An, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định) khoảng hơn 100m và nằm ngay trên con đường dẫn vào chùa, gắn với chùa thành một cụm di tích. Vì vậy, dân trong vùng quen gọi cầu bằng cái tên: Cầu ngói chùa Lương. Ngoài ra, cầu còn có tên gọi khác là cầu chợ Lương, vì cầu nằm gần chợ Lương. Cầu vừa là công trình giao thông, vừa là công trình văn hóa cộng đồng của làng xã. Đây là nơi dân làng dừng chân nghỉ ngơi, trò chuyện mỗi khi đi chợ, đi lễ chùa, hoặc đi làm đồng về.

Theo các tài liệu thư tịch cổ, cầu ngói chùa Lương được xây dựng cùng thời với chùa Lương, tức vào khoảng thế kỉ XVI. Cầu bắc ngang sông Trung Giang, một con sông nhỏ chạy dọc theo xã Hải Anh. Cầu được dựng theo lối "thượng gia hạ kiều" (trên là nhà, dưới là cầu). Lúc đầu, cầu chưa có mái ngói, chỉ lợp cỏ đơn sơ. Đến thế XVII, cầu được trùng tu sửa chữa lại cho phù hợp với tầm vóc và cảnh quan chung của quần thể chùa Lương. Đặc biệt, lần trùng tu lớn vào năm 1922 đã tạo cho cầu có một dáng vẻ bề thế như ngày hôm nay.

Cầu ngói chùa Lương trông giống như một ngôi nhà dài nằm vắt mình mềm mại qua dòng sông Trung Lương.

Vườn Quốc gia Bù Gia Mập

Nằm trên địa bàn huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước, Vườn Quốc gia (VQG) Bù Gia Mập không chỉ là nơi bảo tồn các nguồn sinh quyển ở Đông Nam Bộ mà từ đây còn có thể tìm hiểu văn hóa dân tộc bản địa của người S’tiêng, M'Nông cũng như khám phá những tiềm năng du lịch sinh thái độc đáo.

VQG Bù Gia Mập có tổng diện tích 26.032ha, trong đó diện tích vùng đệm là 15.200ha nằm trên 3 xã: xã Bù Gia Mập, xã Đắk Ơ (tỉnh Bình Phước) và xã Quảng Trực (tỉnh Đắk Nông). VQG thuộc vùng đất thấp của Nam Tây Nguyên với hệ thống sông suối gồm các dòng Ðắk Huýt chảy dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia, Ðắk Sa, Ðắk Ka và suối Ðắk K'me. 

VQG Bù Gia Mập là một trong hai VQG của Việt Nam nằm trong vùng sinh thái rừng khô của trung tâm Đông Dương, thuộc hành lang ưu tiên bảo tồn của Tiểu vùng Mekong. (Ảnh: Nguyễn Luân)

Rộn ràng Tết Chôl Chnăm Thmây

Từ 13 đến 15/4/2012, hàng chục nghìn người dân và du khách đã tập trung về 2 ngôi chùa của đồng bào Khmer ở Tp. Hồ Chí Minh là Chantarangsay (quận 3) và Bodhivamsa Pathi Vong (quận Tân Bình) để cùng đón Tết cổ truyền dân tộc Khmer - Chôl Chnăm Thmây 2012 trong không khí rộn ràng, mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào Khmer Nam Bộ. 

Theo tiếng Khmer, Chôl Chnăm Thmây có nghĩa là “Vào năm mới”, “Lễ chịu tuổi”. Đây là lễ Tết lớn nhất trong năm của người Khmer, diễn ra vào giữa tháng Tư Dương lịch, tức vào lúc giao mùa giữa mùa nắng và mùa mưa ở Nam Bộ.

Cũng như Tết cổ truyền của các dân tộc khác, Chôl Chnăm Thmây của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ tuy có cùng ý nghĩa nhưng lại được tổ chức với những tập tục và lễ nghi khác biệt theo bản sắc văn hóa của mình.

Vì là một cộng đồng dân tộc theo hệ phái Phật giáo Tiểu thừa, nên mọi sinh hoạt Tết Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer Nam Bộ đều diễn ra tại chùa. Người Khmer Nam Bộ chuẩn bị ngày Tết cổ truyền của mình thật trang trọng, nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, quần áo may mới cho mọi người trong gia đình như Tết Nguyên Đán của người Việt. 

Các nhà sư và Phật tử chùa Candaransì làm lễ cầu siêu đầu năm mới.

Điện Biên ngày ấy, bây giờ

Điện Biên, mảnh đất ghi dấu chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đã 58 năm trôi qua, chiến trường xưa nay đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng mà du khách không thể bỏ qua khi đến với miền Tây Bắc.

Từ thủ đô Hà Nội lên với Điện Biên, du khách có thể đi lại rất thuận tiện bằng ô tô hoặc bằng máy bay. Trong hành trình của mình, du khách sẽ được khám phá một Điện Biên của những năm tháng chiến tranh và một Điện Biên đầy sức sống của ngày hôm nay. 

Tượng đài chiến thắng trên đồi D1 của Điện Biên Phủ.

Vàng Pheo mến khách

Bản Vàng Pheo thuộc xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Đây là vùng đất sinh sống lâu đời của đồng bào dân tộc Thái trắng. Dân bản Vàng Pheo mến khách, cảnh sắc núi rừng thơ mộng, nên đã cuốn hút biết bao du khách đến với nơi này. 

Nằm cách trung tâm thị xã Lai Châu khoảng 30km, bản Vàng Pheo hiện lên trong một chiều nắng thật đẹp. Bản có vị trí thiên thời, địa lợi, nằm ngay bên núi Phu Nhọ Khọ, ngọn núi được ví như một mĩ nhân. Đây là nơi giao thoa giữa hai dòng suối Nậm So và Nậm Lùm. Vàng Pheo có nhiều ngôi nhà cổ nằm nép mình bên những ruộng lúa xanh trong không gian thanh bình, yên tĩnh.

Chúng tôi theo con đường rải cát mịn, ô tô có thể vào đến tận bản. Xe dừng chân tại nhà văn hoá Vàng Pheo, ấn tượng nhất là nhóm trẻ con dân tộc tại đây ùa ra đón chào. Những gương mặt thơ ngây còn lem nhem nét bẩn nhưng nụ cười của bọn trẻ thật đáng yêu. Vào những đêm trời Tây Bắc có sao, có trăng sáng vằng vặc, các thiếu nữ bản Vàng Pheo lại cùng nhau trong các bộ váy thướt tha múa xoè theo tiếng đàn, tiếng trống nhịp nhàng ở sân nhà văn hoá. 


Cầu treo bắc qua suối vào bản Vàng Pheo.

Nơi thượng nguồn sông Mã

Ít ai biết thượng nguồn con sông Mã hùng vĩ lại bắt nguồn từ con suối nhỏ Púng Hon đầy truyền thuyết và gắn liền với văn hóa đặc sắc của người Thái ở nơi phên dậu Mường Lèo, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. 

“Đến huyện Sông Mã rồi mà không lên thượng nguồn sông ở Sốp Cộp thì phí chuyến phiêu du vùng nam của Tây Bắc”, người dân bản địa thấy chúng tôi giống dân phượt nên bảo thế. Từ trung tâm thị trấn Sốp Cộp, chúng tôi vật lộn với hơn 70 km đường rừng, đi ngược theo một dòng suối nhỏ, băng qua cả chục con dốc dựng đứng thì vùng đất Mường Lèo huyền bí với những ngôi nhà sàn gỗ cao to lừng lững đã hiện ra trước mắt.

Biết chúng tôi lặn lội đường xa đến đây để tìm hiểu về dòng suối nước Púng Hon và sự huyền bí văn hóa nguyên sơ của bà con dân bản, ông Bí thư xã Mường Lèo Lèo Văn Thuận say sưa kể về huyền thoại của dòng Púng Hon. Truyền thuyết kể rằng, Người Thái đen ở mường Púng Bánh đi săn thấy một con tê giác có 3 sừng, phường săn đuổi mãi, qua những ngọn núi quanh năm mây phủ, qua những tán rừng nguyền sinh thì thấy một vùng đất bằng phẳng. Ở giữa vùng đất đó ở có một con suối nước trong xanh mà chiều chiều hươu, nai kéo từng đàn xuống uống nước. Biết là vùng đất tốt, tộc người ăn theo nước mới di dân đến khai khẩn dựng mường. Thời ấy, con người và muông thú cùng chung sống hòa thuận dưới cánh rừng đại ngàn năm này qua năm khác. 


Con Suối Púng Hon êm đềm chảy qua thung lũng Mường Lèo tưới tiêu cho những cánh đồng lúa đang thì con gái.

Làng cổ Thủ Lễ

Làng Thủ Lễ thuộc xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền, hình thành vào khoảng giữa thời Lê (1428-1788). Làng nằm kề bên phá Tam Giang. Trải qua hơn nửa thế kỉ, làng cổ Thủ Lễ nay vẫn còn lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa đặc trưng của một làng quê xứ Huế.

Theo tiếng Hán, “Thủ Lễ” có nghĩa là “giữ lễ”. Điều đó cho thấy dân làng Thủ Lễ rất coi trọng việc giữ gìn lễ nghi, nền nếp và phong tục. Thủ Lễ là một làng thuần nông, đất rộng không tới 4km2, ruộng đất bình quân đầu người không quá một sào nhưng lại là vùng đất văn vật với nhiều công trình văn hóa đặc sắc như: đình, chùa, miếu thờ Ngũ Hành gắn với truyền thuyết về Huyền Trân Công chúa thời Trần (1225 - 1400) theo chồng mở cõi Đàng Trong, Văn Thánh Miếu thờ Khổng Tử, Võ Thánh Miếu thờ Quan Công...

Một trong số những câu đối chữ Hán ca ngợi truyền thống và vị thế của làng. (Ảnh: Công Đạt)

13 thg 2, 2013

Chùa Nhất Trụ

Nhất Trụ (còn gọi là Chùa Một Cột) là ngôi chùa cổ có từ thế kỉ X, nằm trong quần thể Khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Chùa còn lưu giữ nhiều cổ vật gắn với lịch sử hình thành kinh đô Hoa Lư. 

Chùa Nhất Trụ được tạo lập năm 995, vua Lê Đại Hành đã cho dựng cột kinh (trụ đá) để khắc kinh dâng nhà Phật và xây dựng theo kiểu chữ Đinh, hướng chính Tây, gồm có cột kinh, chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp… Chùa có tên Nhất Trụ vì trước chùa có cột đá cao hơn 3m, tiết diện hình bát giác. Trên thân cột ngoài 3 phần chữ khắc gồm có Lạc khoản, Kệ, Kinh còn có các chữ “Đệ tử Thăng Bình Hoàng đế tả đạo” ("Hoàng đế Thăng Bình" tức vua Lê Hoàn).

Chùa Nhất Trụ nằm ở vị trí trung tâm, là di tích quan trọng nhất, là nơi tu hành và họp bàn việc nước của các nhà sư thế kỉ X như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh. Trải qua các thời kì lịch sử của dân tộc, trước thử thách của gió bão, bom đạn chiến tranh, trụ đá vẫn còn đứng mãi với thời gian.


Cổng tam quan chùa Nhất Trụ.

Khám phá “Phủ đầu rồng”

Ngay giữa trung tâm thành phố Hồ Chí Minh có một công trình kiến trúc rất đặc biệt, đó chính là Hội trường Thống Nhất, hay còn gọi là Dinh Độc Lập. Đây chính là nơi chứng kiến sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, giải phóng hoàn toàn miền Nam vào ngày 30/4/1975. 

Thời Pháp thuộc, sau khi chiếm xong lục tỉnh Nam Kỳ (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên), tháng 2/1868, Thống đốc Nam Kỳ Lagrandière đã cho xây dựng Dinh Thống đốc mới tại Sài Gòn thay cho dinh cũ được dựng bằng gỗ vào năm 1863. Công trình này được xây cất trên một diện tích rộng 12ha với một dinh thự lớn có mặt tiền rộng 80m. Đến năm 1873, dinh được hoàn thành và đặt tên là Dinh Norodom, cùng tên với đại lộ trước dinh, lấy theo tên của Quốc vương Campuchia lúc bấy giờ là Norodom (1834-1904). Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, Dinh Norodom trở thành nơi làm việc của chính quyền Nhật, rồi sau 1945 lại trở thành trụ sở làm việc của Pháp ở Việt Nam.

Năm 1955, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đổi tên Dinh Norodom thành Dinh Độc Lập. Thời đó, giới chức và quân đội Sài Gòn cũng thường hay gọi bằng một cái tên ví von là “Phủ đầu rồng”. 



Năm 1955, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đổi tên dinh Norodom thành Dinh Độc Lập.

Buôn Đôn vào hội

Từ ngày 24 đến 26/3/2012, tại xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đaklak, cách Buôn Ma Thuột 40 km về phía Bắc đã diễn ra Lễ hội văn hóa truyền thống các dân tộc huyện Buôn Đôn năm 2012.

Đây là lễ hội truyền thống được tổ chức 2 năm một lần. Mặc dù chỉ diễn ra trong vòng chưa đầy 3 ngày, nhưng nội dung hết sức phong phú, độc đáo, đậm đà bản sắc Tây Nguyên. Trong đó có những chương trình đặc sắc như: Lễ cúng bến nước, Lễ cúng sức khỏe cho voi, Lễ đâm trâu, Lễ đua voi, Voi đá bóng… Bên cạnh đó còn có nhiều hoạt động khác như văn nghệ, trò chơi dân gian, ẩm thực, biểu diễn trang phục truyền thống.

Tối 24/3/2012, Lễ khai mạc Lễ hội văn hóa truyền thống các dân tộc huyện Buôn Đôn năm 2012 đã diễn ra tại xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đaklak.