20 thg 5, 2020

Một số địa danh ở Lâm Đồng

Đẻo Bảo Lộc

Tên núi, đèo:


Bảo Lộc là đèo nằm trên quốc lộ 20, nằm ở ranh giới thành phố Bảo Lộc và huyện Đạ Hoai, tỉnh Lâm Đồng, dài 10km, ở độ cao 930m. Còn gọi là đèo B’Lao.

Bảo Lộc còn là thành phố của tỉnh Lâm Đồng, diện tích 232,4
km2, dân số 138.000 người (2006), gồm 6 phường. B’Lao chuyển thành Bảo Lộc ngày 19-2-1959.

Bảo Lộc có hai cách lý giải: 1.Là địa danh dùng để Việt hoá một tên gốc là B’Lao hay Cơ Ho Kuèl Kơh Vơlau, nghĩa là “đèo Vơlau” theo chủ trương của chính quyền thời bấy giờ (1959). 2. Tên một loài hoa đẹp có nhiều trong vùng, theo tiếng địa phương.

Một số địa danh ở Đắk Nông

Thác Dray Sáp

Tên các sông, suối, hồ :

Đray Sap là thác nước ở xã Nam Hà, huyện Krông Knô, tỉnh Đắc Nông. Cũng gọi là thác Chồng, đối ứng với thác Đray Nu (thác Vợ) ở tỉnh Đắc Lắc. Đray Sap gốc Ê Đê, có nghĩa là “thác khói”, vì thác dài gần 100m, bọt nước tung mù mịt như khói phủ.

Một số địa danh ở Đắk Lắk

Thành phố Buôn Ma Thuột

Tên núi, đèo:

Núi Chư Kuên ở tỉnh Đắc Lắc. Chư Kuên gốc Ê Đê, nghĩa là “núi vượn”.

Chư Đrao là núi ở tỉnh Đắc Lắc. Chư Đrao gốc Ê Đê Chư Krao, nghĩa là “núi chim sáo”.

Ở tỉnh Đắc Lắc có núi Chư M’Gar. Đây cũng là tên huyện của tỉnh, diện tích 819,8 km
2, dân số 151.100 người (2006), gồm 2 thị trấn Ea Pôk, Quảng Phú và 14 xã. Chư M’gar gốc Ê Đê, Mơ Nông, nghĩa là “núi trọc, không có cây”.

Chư Mnga là núi ở tỉnh Đắc Lắc. Chư Mnga gốc Ê Đê, là “núi hoa”.

"Sâu muồng" - món ăn đặc trưng của người Ê đê

Đối với người Ê đê, bên cạnh các món ăn truyền thống như: cà đắng, jiăm tang, lá mì xào… thì “sâu muồng" được xem là một món ăn đặc trưng nhất từ thiên nhiên. Mùa sâu muồng thường bắt đầu từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 dương lịch hàng năm. Khi thời tiết nắng nóng và sắp chuyển sang mùa mưa là thời điểm mà sâu muồng sinh sôi, nảy nở.

Sâu muồng là loại sâu sống ở cây muồng, loại cây thường được người dân trồng xen trong vườn cà phê, trồng ở bìa rẫy để tạo bóng mát, chắn gió và vừa làm trụ cho cây hồ tiêu. Những cây muồng lá sum suê, lá non là nguồn thức ăn khoái khẩu của sâu muồng. Sâu muồng nhỏ, dài khoảng 3-4 cm, lưng có màu nâu vàng, hai bên mình có sọc màu nâu thẫm, da trơn, di chuyển bằng cách cong thân mình lại về phía trước. Khi trưởng thành, sâu bắt đầu rời bỏ ngọn cây, trở về cùng thân cây muồng để kéo kén, thành nhộng. 

Sâu muồng nhỏ, lưng có màu nâu vàng, hai bên mình có sọc màu nâu thẫm, da trơn được người Ê đê bắt về chế biến món ăn 

Độc đáo điệu múa sư tử mèo của người Tày, Nùng

Trải qua quá trình sinh sống, phát triển, đồng bào dân tộc Tày, Nùng ở Ðắk Nông vẫn còn gìn giữ, lưu truyền những nét văn hóa đặc trưng, mang đậm bản sắc dân tộc; trong đó, phải kể đến điệu múa sư tử mèo.

Ðây là một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống được biểu diễn trong các dịp lễ, tết của người Tày, Nùng. Theo quan niệm của họ, sư tử là tượng trưng cho sự thịnh vượng, sư tử đi đến đâu là mang theo hạnh phúc, no đủ và niềm vui đến đó. Người Tày, Nùng cho rằng, múa sư tử mèo để xua đi những điều xấu, do vậy khuôn mặt mèo càng dữ tợn càng tốt, điệu võ càng mạnh mẽ càng hấp dẫn. Nếu thiếu điệu múa sư tử mèo là thiếu đi một phần linh hồn của ngày hội và màu sắc rực rỡ của ngày xuân. 

Múa sư tử mèo đã trở thành nét văn hóa đặc sắc của người Tày, Nùng mỗi dịp lễ, tết 

Cây mây "quấn quýt" bon làng, "gắn kết" cộng đồng

Đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, mây chiếm một vị trí quan trọng trong sinh hoạt, đời sống và ẩm thực. Từ bao đời nay, dù sướng khổ, thăng trầm, dây mây vẫn luôn "quấn quýt" với bon làng, "gắn kết" cộng đồng.

Mây là một loại cây rừng mọc thành bụi, có dây dài đến hàng chục mét. Đồng bào Ê đê, M’nông thường dùng thân mây làm dây buộc các cấu kiện để cất nhà ở, dùng lá mây để lợp mái nhà. Khi lợp, các lá mây rừng được nối kết với nhau bằng dây mây chẻ nhỏ, chuốt nhẵn để tăng độ dẻo dai. Những ngôi nhà lợp bằng lá mây có độ bền còn cao hơn so với cỏ tranh. Có nhiều căn nhà lợp lá mây chịu được mưa gió, nắng nóng hàng chục năm mới phải lợp lại. 

Canh thụt là sự hòa quyện đặc biệt của các loại nguyên liệu, có vị đắng, cay, ngọt, bùi béo khiến ai ăn một lần là nhớ mãi. Ảnh tư liệu 

Tục đòi nợ đậm tính nhân văn của người M’nông

Người M’nông xưa có nhiều tập tục mang đậm tính nhân văn, trong đó có tục đòi nợ. Khi lâm vào tình cảnh khó khăn, người nghèo khó phải đi vay mượn của anh em họ hàng hay bạn bè trong bon. Khi vay, người vay thường hứa với chủ nợ trả bằng heo nếu thời gian ngắn, hoặc trả bằng trâu nếu lâu năm; nếu vay mượn nhiều, thời gian dài thì có thể phải trả bằng chiêng, ché.

Đối với những món vay ít giá trị thì việc trả nợ thường đơn giản. Tuy nhiên, nếu món vay có giá trị lớn, đến thời gian lấy nợ, người cho mượn có cách đòi nợ rất đặc biệt, đó là lễ đòi nợ. Theo đó, đến ngày hẹn trả nợ, vợ chồng chủ nợ sẽ bàn bạc làm lễ đòi nợ. Trước khi làm lễ, chủ nhà mời già làng (có khi là thầy cúng) và anh em dòng họ đến nhà mình để dự lễ và chứng kiến. 

Người M’nông có nhiều phong tục đầy tính nhân văn 

Thơm ngọt quả gùi trên Cao nguyên M’nông

Cây gùi có tên khoa học là Willughbeia cochinchinensis, là loại thực vật có dây leo hóa gỗ mọc hoang dại trong rừng. Ở Việt Nam, cây gùi phân bố chủ yếu một số tỉnh ở vùng Đông Nam bộ và vùng phía Nam Tây Nguyên. 

Vào mùa gùi, bắt đầu từ tháng 4, 5 dương lịch, đi qua các bon làng chúng ta không khó để bắt gặp từng nhóm người M’nông rủ nhau vào rừng tìm hái những quả gùi chín vàng. Cũng từ đó những người đi buôn tập trung đón mua quả gùi của đồng bào dân tộc thiểu số đem bán. 


Gùi khi chín có kích thước to nhỏ khác nhau, có vỏ màu vàng, mỏng 

19 thg 5, 2020

Ghi ở Kon Brăp Ju

Làng Kon Brăp Ju (xã Tân Lập, huyện Kon Rẫy) nằm yên bình bên dòng Đăk Pne, thu hút du khách bởi những nét đẹp cổ xưa còn được lưu giữ khá nguyên vẹn.

Tên làng trong ký ức


Như đã hẹn, cán bộ Trung tâm Văn hóa-Thể thao-Du lịch và Truyền thông huyện Kon Rẫy đưa tôi đến với làng Kon Brăp Ju trong một sáng tháng Ba. Trên chặng đường từ thị trấn Đăk Rve về đến làng Kon Brăp Ju, tôi nghe người dân kể rất nhiều về tên làng này có không ít những chi tiết huyền sử pha lẫn với sự tự hào của tổ tiên người Ba Na (nhánh Jơ Lâng) nơi vùng đất Kon Braih.

Ngồi trong ngôi nhà sàn cũ kỹ của mình với rất nhiều nhạc cụ, nhạc khí treo khắp các tường nhà, già làng A Jring Đeng (68 tuổi) kể cho tôi nghe về sự tích của làng Kon Brăp Ju mà già rất yêu quý và tự hào.

Độc đáo thổ cẩm truyền thống của người Thái Đen

Với những phụ nữ người Thái Đen (một nhánh của dân tộc Thái) ở xã Ya Xiêr, huyện Sa Thầy, những vật dụng được làm từ thổ cẩm như: Chăn, màn, gối, nệm hay bộ trang phục truyền thống có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là những đồ thổ cẩm truyền thống do chính tay họ làm nên và là quà cưới mà phụ nữ người Thái Đen phải chuẩn bị trước khi đi lấy chồng. 

Đã hơn 20 năm kể từ ngày bà Lương Thị Xuân (52 tuổi) cùng gia đình di cư vào lập nghiệp tại thôn 1, xã Ya Xiêr nhưng bà vẫn nhớ như in quãng thời gian sinh sống cùng cha mẹ ở quê hương mình- huyện miền núi Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Bà Xuân kể, ở quê bà những thiếu nữ Thái Đen khi đến tuổi trưởng thành đều được mẹ truyền dạy cho kỹ năng dệt, thêu và làm các đồ thổ cẩm truyền thống của người Thái Đen. Và, những phụ nữ khéo tay, chăm chỉ, thành thạo việc dệt vải, thêu thùa sẽ được làng xóm ngợi khen, được nhiều nam thanh niên trong bản để mắt tới.