23 thg 1, 2013

Vùng chè cổ thụ Phình Hồ & Háng Tề Chơ

Chắc cũng do ảnh hưởng truyền thống gia đình nên chẳng biết từ khi nào đã đam mê cái thú uống chè và đi tìm hiểu về các vùng chè Việt Nam. Cũng đã tận mắt chiêm ngưỡng nhiều vùng chè nhưng say mê nhất là những vùng chè cổ thụ của miền bắc. Một trong những cái nôi của văn hóa chè Việt Nam.

Trong tiềm thức khi còn nhỏ, cây chè thường be bé xinh xinh, cao lắm thì đến ngực là cũng, cũng bởi thế mà ngỡ ngàng xiết bao khi lạc vào thế giới chè cổ thụ với những rừng chè cao từ vài mét đến chục mét. Trong bài viết này chia sẻ ít hình ảnh của 2 vùng chè Phình Hồ và Háng Tề Chơ (một vùng chè chẳng mấy ai biết đến trừ những con người nơi đây)


 Trong bài viết này cũng chỉ nói về chè dưới cái nhìn du lịch chứ không phải chuyên gia nghiên cứu nên có "loạn ngôn" chút mọi người cũng đừng trách nhé.


Quỷ đến Phình Hồ - Yên Bái lần này là thứ 2, cũng để chinh phục ngọn thác huyền thoại Háng Tề Chơ và thăm lại bản Phình Hồ với muôn nghìn chè cổ thụ, lần này quay lại có nhiều kinh nghiệm rồi nên tranh thú hái chè đem dìa Sài Gòn đặng nhâm nhi với bạn bè mà bàn chuyện "thiên hạ phân tranh".:D



Độc đáo cơm cháy Ninh Bình

"Rượu ngon cơm cháy thịt dê
Ninh Bình chào đón khách về tham quan
”...

Ninh Bình được biết đến bởi những di tích - danh thắng nổi tiếng như Tràng An, Tam Cốc Bích Động, chùa Bái Đính hay nhà thờ Phát Diệm… Ngoài ra mảnh đất cố đô còn được người ta biết đến bởi đặc sản cơm cháy hàng trăm năm - món quà độc đáo cho du khách thập phương khi tới tham quan.


Cơm cháy không chỉ là món ăn truyền thống của mỗi gia đình ở cố đô Hoa Lư... - Ảnh: P.Thanh

Mỗi khi có dịp qua Ninh Bình, tôi đều tìm mua đặc sản cơm cháy mang về làm quà. Cơm cháy được người dân nơi đây chế biến và bày bán quanh năm, bất kể mùa đông hay mùa hè. Ngày lạnh người ta thưởng thức món cơm cháy chà bông, còn mùa nóng là cơm cháy kèm nước xốt.
Nguồn gốc cơm cháy Ninh Bình
Tương truyền món cơm cháy Ninh Bình được hình thành hơn 100 năm (từ cuối thế kỷ 19). Món cơm này do một chàng thanh niên người Ninh Bình (cũng có người nói  thanh niên này tên là Hoàng Thăng) học được và phát triển từ một món ăn của người Hoa, sau đó mở rất nhiều tiệm ăn ở Hà Nội lẫn Ninh Bình. Từ đó món cơm cháy được lưu truyền, phát triển và nay trở thành một đặc sản của vùng đất cố đô.

Ngày nay còn có riêng một dòng cơm cháy gia truyền nổi tiếng và thơm ngon mang tên Hoàng Thăng.
Cơm cháy truyền thống của Ninh Bình được làm từ gạo tám hoặc gạo nếp, trong đó gạo tám Hải Hậu (Nam Định) là ngon nhất. Tuy nhiên, do giá cả thứ gạo này thường cao hơn nên người ta cũng có thể dùng các loại gạo khác (miễn sao gạo phải có độ dẻo, thơm). 


Dê núi Ninh Bình


Dê núi Ninh Bình, một đặc sản có thương hiệu địa phương đã lai rai xuất hiện tại những trung tâm ẩm thực lớn của đất nước như Hà Nội, Sài Gòn. Có lẽ, dê núi Ninh Bình mới thật sự là dê núi và người dân ở đây đã rất tỉ mẩn chăm chút cho các món đặc sản thế mạnh của vùng này
Những “động vật hoang dã” duy nhất có thể nhìn thấy bằng mắt thường trên những vùng núi Ninh Bình chính là những đàn dê. Ngồi trên những chiếc xuồng xuôi ngược trên dòng Sào Khê chảy ngang qua khu du lịch Tràng An, du khách sẽ thấy nhiều chú dê be be tít tận những dốc đá hiểm trở đến mức mà hầu như ai cũng thắc mắc về phương cách leo trèo của đàn dê nhà này.

Đến Bái Đính rồi… bái biệt!

Chuẩn bị chuyến du lịch đến Ninh Bình, giám đốc một công ty lữ hành đã khuyên chúng tôi chỉ nên tham quan khu hang động Tràng An, không nên đến chùa Bái Đính. Tuy vậy, chúng tôi vẫn cố đến tham quan Bái Đính một lần cho biết, để rồi phải... bái chào luôn! 


Và tiền... trên cả mặt trống đồng! 

Đi thuyền trên sông Ngô Đồng



Sông Ngô Đồng chảy vòng vèo, uốn lượn giữa đồng lúa chín vàng. 

Để vào Tam Cốc - Bích Động, khu du lịch có nhiều hang động và di tích lịch sử liên quan đến triều đại nhà Trần, chủ yếu thuộc địa phận xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, chúng tôi đã có hai tiếng đồng hồ đi thuyền trên sông Ngô Đồng, vòng vèo giữa cánh đồng lúa đang vào mùa gặt nhuộm vàng cả con sông.

Về thăm cảnh tiên Bích Động


Nằm trong quần thể du lịch của huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, từ lâu Bích Động đã được biết đến với danh xưng “Nam thiên đệ nhị động” (động đẹp thứ nhì ở trời Nam sau động Hương Tích).




Cổng chùa tam quan cổ kính ẩn hiện sau tán cây rậm rạp - Ảnh: Nguyễn Thắng

Trong tiết trời mát mẻ một ngày đầu thu, quãng đường hơn 100km từ Hà Nội về Bích Động dường như không lấy đi bao nhiêu sức lực của nhóm du khách trẻ. Nhìn từ xa, ngôi chùa thấp thoáng ẩn hiện trong tán cây rậm rạp của ngọn núi Ngũ Nhạc Sơn.


Cố đô Hoa Lư

Hơn 1.000 năm trước (năm 968), sau khi bình định 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, chọn Hoa Lư (xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, cách Hà Nội gần 100km) làm kinh đô. Đến năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Hoa Lư trở thành cố đô từ đó. 

Hoa Lư với những dãy núi đá hình vòng cung, những con sông bao quanh, như một chiến hào vững chắc rất tiện lợi cho phòng thủ và chiến đấu. Hướng nam Hoa Lư được núi Ngự làm thành một bức tường kiên cố. Hướng tây được dải Trường Yên che chở. Hướng bắc có sông Hoàng Long. Một nhánh của sông Hoàng Long chảy theo sông Bội đổ vào động Hoa Lư - căn cứ địa đầu tiên của Ðinh Bộ Lĩnh.


Cùng với sông Lãng, sông Bội, sông Hoàng Long tạo thành một hệ thống thủy lộ chằng chịt nối liền với các vùng đất khác nhau. Vào thời ấy giao thông đường thủy hết sức quan trọng đối với quốc phòng và đời sống kinh tế, văn hóa của dân tộc. Vì vậy, Hoa Lư được Đinh Tiên Hoàng chọn làm kinh đô là điều tất yếu...



Đền vua Lê


Chùa Bái Đính, công trình Phật giáo cấp quốc gia của Việt Nam

Nằm trong địa phận xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, từ đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành, du khách đi thêm gần 6 km là tới khu vực chùa Bái Đính. Cách thủ đô Hà Nội trên 100 km, chùa Bái Đính là công trình Phật giáo do một nhóm tư nhân và các quỹ hảo tâm từ thiện đóng góp gây dựng (Công ty TNHH Nguyễn Xuân Trường thiết kế xây dựng và là chủ đầu tư), được coi là lớn nhất Việt Nam về diện tích và quy mô xây dựng.

Mặc dù mới hoàn tất trên 30% tổng khối lượng xây dựng, nhưng mỗi ngày chùa Bái Đính đón trên 50.000 người thập phương đến chiêm ngưỡng công trình.

Tam Thế Điện - Pháp Chủ Điện - Tháp Chuông và cổng Tam Quan có diện tích 107ha nằm trong tổng thể rộng 2.000 ha của trung tâm du lịch Tràng An. Chùa có 500 pho tượng La Hán đá nguyên khối do thợ đá làng Ninh Vân, Hoa Lư, Ninh Bình thực hiện, sẽ được đặt dọc hai bên đường từ cổng Tam Quan đến chân Tam Thế Điện (với chiều dài hơn 0,5 km).

Tổng cộng có đến 8.000 m³ gỗ quý gồm: sến, táu, lim, vàng tâm được sử dụng làm cột, kèo, mái… Hai quả chuông lớn nhất Đông Nam Á, nặng 27 tấn và 36 tấn, được đặt trong Tháp chuông 24 mái, 3 tầng (do nghệ nhân Nguyễn Văn Sứng, thành phố Huế thực hiện).

Chùa dự kiến khánh thành vào giữa năm 2010, để chuẩn bị cho Đại hội Phật giáo thế giới diễn ra tại đây vào tháng 9-2010.

Tháp chuông 3 tầng, 24 mái

Xung quanh tường tại tòa Tam Thập Điện và Pháp Chủ Điện xây 10.000 ô tượng thắp đèn chiếu sáng, nơi du khách có thể làm từ thiện để sở hữu một ô tượng với giá 5 triệu đồng

Mặt tiền của Tam Thế Điện

Ba pho tượng được đúc đồng nguyên khối (đồng được nhập từ Nga), do các nghệ nhân Ý Yên, Nam Định thực hiện. Mỗi pho tượng nặng 50 tấn, toàn bộ được thếp bằng vàng ròng, đặt trong gian chính của Tam Thế Điện. Nơi đây có diện tích 2.400m², gồm 12 mái, cột trụ cao từ 24m đến 30m

Đứng từ thềm của Tam Thế Điện nhìn ra phía trước là tòa Pháp Chủ Điện, trước nữa là hồ Đầm Thị, sông Hoàng Long, xung quanh bao bọc bởi núi đá vôi

Nghê đá - biểu tượng thần linh được làm nguyên khối trước cổng Tam Quan

Tượng La Hán đá trắng nguyên khối đã hoàn tất được “tập kết” tại khu đất trống trước Tháp Chuông

 Tư thế của mỗi tượng đá La Hán - theo cách nói của người Việt là “đang phù hộ cho một mảnh đất trong tương lai”

Theo DƯƠNG MINH LONG
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần - tháng 2/2009

Bánh đa cua Hải Phòng Kỷ lục Châu Á

Trên những cánh đồng chua mặn giành giật từ biển cả, bão tố ngàn đời, người vùng biển Hải Phòng đổi một nắng hai sương lấy những hạt gạo ngan ngát nắng gió trùng khơi. 

Gạo ấy phơi già nắng, để qua vụ, đem về làng bánh đa cổ truyền 700 năm Lạng Côn – Kiến Thụy, làng Hỗ - huyện An Dương, Dư Hàng Kênh - trong nội thành, ngâm vào nước vài canh giờ, lại cho vào cối xay nhuyễn, chế nước vừa đủ tạo nên thứ bột sánh mịn, dẻo mềm. Xay xong hòa thêm bột quả gấc chín, giản tiện hơn là chút kẹo đường phèn, hay cầu kỳ nữa là một thứ mật thơm bí truyền để bột có màu nâu sậm. Rồi qua đôi bàn tay tảo tần chịu khó của người thợ miết mỏng, hấp chín, sắp bày kín phên tre nứa đem hong nắng, tráng sương – một loại bánh đa đỏ đặc trưng vùng quê biển đã thành hình.

Bánh đa nhúng thường là loại có một nắng, một sương. Nếu làm trong đêm, phơi lên đón sương rồi mới đem phơi nắng. Ngược lại, tráng bánh phơi ban ngày đón nắng thì cuối đêm họ mới thu vào. Như vậy, muốn có lá bánh đa khi đem trần lên, thả vào bát canh cua mềm miệng nhưng dẻo dai không bị bở bục hay trương nhũn ngoài chuyện gạo ngon, còn phải có bí quyết từ khâu chế nước xay gạo, điều chỉnh lửa lò khi tráng đến cách phơi bánh đượm nắng, ngấm sương tạo thành bánh đa tươi. Còn thứ bánh phơi khô cong vốn chỉ để đóng gói đem đi các miền xa, dù để được hàng tuần nhưng khi ăn đã vợi bớt đi nhiều phần hương vị đồng biển.



Bánh đa cua Hải Phòng


Hằng ngày, trên khắp đường phố Hải Phòng, trong các quán ăn hoặc vỉa hè, người người đi ăn sáng bằng món bánh đa cua quen thuộc mà luôn hấp dẫn. Buổi sáng khoảng hơn 9 giờ, các quán đã hết sạch bánh đa cua. Buổi chiều thì từ 3 - 4 giờ cho đến chập tối.



Nhiều nơi ở Hải Phòng làm bánh đa sợi, nhưng có tiếng nhất phải là bánh đa khu Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân và bánh đa chợ Hỗ, huyện An Dương. Bánh đa phải làm bằng thứ gạo ngon, xay thành bột mịn và tráng cho mỏng đều, phơi vừa khô thì cắt ra thành sợi.