Hiển thị các bài đăng có nhãn Người Đô thị. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Người Đô thị. Hiển thị tất cả bài đăng

30 thg 4, 2025

Trăm năm Nam Bắc Hiệp và ông chủ nhà hàng bất đắc dĩ

Nhà hàng Nam Bắc Hiệp nổi lên như một nơi chốn sang trọng giữa trung tâm Thủ Dầu Một, với thực đơn món Tây phục vụ giới trung và thượng lưu lui tới làm ăn ở đây cùng quan chức Tây ta trong tỉnh.

Cách nay hơn một trăm năm (1922), ở Thủ Dầu Một, thủ phủ tỉnh Bình Dương ngày nay, ngay dãy phố 4 căn xây cho thuê của ông Trần Trung Hiếu có một nhà hàng Tây đồ sộ chiếm một góc đường giáp ba mặt: đường Phan Thanh Giản (nay là Điểu Ông), Charles Chanson (nay là Ngô Tùng Châu) và Thái Lập Thành (nay là Nguyễn Thái Học). Mặt tiền số 90 đường Thái Lập Thành ngang 7 m, sâu 30 m nở hậu. Nhà xây theo kiểu Tây bằng gạch, một tầng lầu.

Đây là cơ sở hùn hạp làm ăn của ông Trần Văn Nhàn và ông Tư Sửu, thuê của ông Trần Trung Hiếu. Nhà hàng là nơi gây dấu ấn sâu đậm trong lòng người dân cố cựu ở Bình Dương những năm từ 1920 đến 1960.

Nhà hàng Nam Bắc Hiệp sau 1945 (*)

Huyền thoại "đồ gỗ Phan Văn Nhị"

Xuất thân từ một vùng quê nghèo, chỉ với hai bàn tay trắng và không được học hành, ông Phan Văn Nhị đã tạo dựng được một thương hiệu sản xuất đồ gỗ có tiếng ở Sài Gòn, có chất lượng và tính mỹ thuật cao trong gần 30 năm.

Từ đầu những năm 2000 tại Sài Gòn, rất nhiều người trong giới trang trí nội thất và chơi đồ gỗ xưa cất công săn lùng một dòng đồ gỗ có từ đầu thập niên 1950. Họ đến các điểm bán đồ gỗ cũ trên đường Lê Công Kiều, đường Pasteur gần chùa Ấn, dưới chân cầu chữ Y hoặc đi xa hơn là đường Bùi Thị Xuân ở quận Tân Bình… để tìm cho được dòng đồ gỗ của hiệu “Phan Văn Nhị”. Chúng được nhận dạng nhờ kiểu dáng thanh thoát thể hiện ở cái tủ búp phê, bộ salon, tủ chén… Nếu may mắn, có thể tìm được món đồ gắn marque bằng đồng có hàng chữ màu vàng “Phan Văn Nhị” trên nền màu đỏ.

20 thg 3, 2025

Tiệm radio trên dốc Minh Mạng

Vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước, ở Đà Lạt có một người thợ bá nghệ nhưng rốt cuộc neo lại cơ nghiệp tạo một tiệm sửa radio nằm ở lưng chừng dốc Minh Mạng.

Tiệm sửa radio có tên Hoàng Anh, số 60 Minh Mạng, được ngăn ra từ tiệm thuốc bắc Thiên An Đường. Được biết, đây chỉ là một phần của cửa hiệu, được Thiên An Đường cho thuê lại. Và ông chủ hiệu thuốc bắc Thiên An Đường cũng đi thuê lại nguyên căn từ ông Võ Quang Tiềm, một doanh gia nổi tiếng Đà Lạt thập niên 1950 - 1970, nhạc phụ của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.

Trở lại vị trí tiệm radio Hoàng Anh trên đường Minh Mạng. Từ đây đi ngược dốc, lần lượt là dãy cửa hiệu nổi tiếng liền kề, có thể kể: Uốn tóc Isana, Photo Hồng Thủy, Photo Văn Lang, Phòng nha của bác sĩ Nguyễn Văn Nghi... Xa hơn, trong bán kính một cây số xoay quanh khu Hòa Bình, có thể nhắc đến hai cửa hiệu sửa và bán radio lớn, nổi tiếng Đà Lạt là Việt Hoa (24 khu Hòa Bình) và Cộng Đồng (51 - 53 Minh Mạng).

17 thg 3, 2025

Cập kênh phố cao nguyên

Rất hiếm đô thị nào như Pleiku được xây dựng trên bung biêng các quả đồi với những con đường uốn lượn và cong như cánh võng, lẩn khuất như mơ như thực giữa các sườn đồi trong lãng đãng sương mù buổi sớm, với những con ngõ cập kênh khúc khuỷu dìu dịu mùi hoàng lan, dạ hương...

Hồi còn là sinh viên, về nhà nghỉ Tết, làng tôi khi ấy còn là... làng, một ngôi làng như mọi ngôi làng thời ấy, chưa có điện, đói và buồn, những con đường làng và bóng tre, tiếng gà gáy vịt kêu, ao chuôm uềnh oang tiếng ếch nhái. Một đêm mưa dầm và lạnh xứ Huế, nằm chờ giao thừa để dâng cỗ thắp hương ông bà tổ tiên, tôi nghe radio, chương trình thơ giao thừa, và nghe được một bài thơ rất ấn tượng, tác giả là Việt kiều Nguyễn Hồi Thủ, nếu tôi nhớ không lầm. Bài thơ về Buôn Ma Thuột, hồi ấy được mệnh danh là thành phố “buồn muôn thuở”, nó buồn mênh mông và cũng gợi mênh mông.

Tôi nhớ cái điệp khúc nhắc đi nhắc lại đất đỏ, cà phê và tâm trạng day dứt của người xa quê...

16 thg 3, 2025

Lần tìm dấu xưa Trần Trung Hí Viện

Những năm 1980, trong những lần đi công tác ở Thủ Dầu Một, buổi chiều tôi chạy xe quanh chợ Thủ và một lần đã bất ngờ khi nhìn thấy cái rạp hát xây theo kiểu Tây trên đường Hai Bà Trưng. Nó cũ kỹ, rêu phong nhưng thật sự có vẻ đẹp riêng của một phế tích không chống chọi nổi với thời gian và thiếu sự chăm sóc.

Trong thời gian đầy khó khăn đó, hầu hết nhà cửa đều xơ xác nên dáng vẻ tiêu điều của rạp hát này không làm cho ai xốn mắt. Tuy nhiên, rạp Thanh Bình, tên của nó, mỗi tối vẫn sáng đèn diễn cải lương cho bà con xem với các đoàn cải lương như Sông Bé 1, Sông Bé 2. Nó vẫn tiếp tục hoạt động như lúc mới được chào đời từ năm 1930. Người dân Thủ Dầu Một vẫn gọi cái tên cũ là Trần Trung Hí Viện hoặc là “rạp hát Trần Trung”, “rạp hát của ông chủ Hiếu”, cho dù nó được đổi tên là rạp Thanh Bình từ năm 1954.

14 thg 1, 2025

Đường Cao Thắng một thời tuổi trẻ

Thỉnh thoảng tôi đi về phía Chợ Lớn, ngang qua ngã ba Cao Thắng - Nguyễn Thị Minh Khai và thấy bóng dáng tuổi trẻ của mình ở những năm tám mươi, chín mươi khi một cơn gió thổi qua thả những bông hoa dầu rơi xuống phố xá…

Thời tôi mới về làm việc trên đường Cao Thắng năm 1983, đường này vẫn mang dáng dấp của Sài Gòn trước năm 1975, vốn duyên dáng và sầm uất với hàng dầu thẳng tắp, với hai rạp xi nê nổi tiếng. Vẫn còn nhiều nhà phố với hàng rào xi măng có ô gió, những hàng bông giấy đỏ cam che chắn mặt tiền và những bức tường tô đá rửa còn nguyên vẹn dù đã cũ kỹ dần.

Đường Cao Thắng nằm gần đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) với Bảo sanh viện Từ Dũ, khu bán đồ gỗ nổi tiếng và sau này là khu bán sách cũ. Học trò ngôi trường trăm năm Petrus Ký và sinh viên các trường Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học ắt hẳn lui tới nhiều trên con đường này, ăn bánh mì Hòa Mã, ghé đường Nguyễn Thiện Thuật ăn chè hột gà, mua dây đàn guitar… Con đường và khu vực chung quanh nó là khu phố điển hình cho sự sầm uất của Sài Gòn, cân bằng giữa việc làm ăn kinh doanh và đời sống văn hóa.

Sài Gòn đô thị và những ngành dịch vụ tiên khởi

Thử ngược dòng lịch sử để nhận ra một số ngành dịch vụ tiên khởi khi Sài Gòn chuyển mình từ thành thị phong kiến sang đô hội tân tiến. Sáu ngành dịch vụ: kinh doanh cảng, sửa chữa tàu, vận tải, viễn thông, ngoại thương và tài chính quốc tế đã tiên phong tận dụng vị trí đắc địa và ưu thế sông biển.

"Chúng tôi không có nhiều đất. Chúng tôi đặt các nhà máy ở các nước tiếp giáp. Nhiều khu công nghiệp của chúng tôi nằm ngoài biên giới. Chúng tôi tập trung làm dịch vụ: cảng, viễn thông, ngoại thương, tài chính, khoa học và đào tạo” - đó không chỉ là ý tưởng mà còn là kinh nghiệm xương máu của Singapore, được cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu chia sẻ thân mật rất ấn tượng tại trụ sở UBND TP.HCM cách đây 32 năm mà người viết chứng kiến. Ý kiến này khá gây sốc bởi lúc ấy chính quyền thành phố đang ưu tiên mở ra các khu công nghiệp. Cũng dễ hiểu, thuở đó đang có “phong trào làm khu công nghiệp” ở nhiều tỉnh thành.

13 thg 1, 2025

Một nhà lâm học của Đà Lạt năm xưa

Có dịp làm việc với những công nhân từng được kỹ sư Tài dẫn dắt ở hai trạm Lang Hanh và Măng Lin, tôi hiểu thêm và trân trọng nhân cách của một nhà lâm học trước những bước ngoặt trên con đường nghiên cứu gập ghềnh.

Cách đây gần 50 năm, tôi được Tổng cục Lâm nghiệp cử làm trưởng đoàn thiết kế và tổ chức thi công trồng thông khu vực Ngự Bình - Huế. Nhận nhiệm vụ, điều tôi lo nhất là phải làm sao kiếm đủ cây giống thông ta (Pinus merkusii)... Vì lúc này ở miền Bắc đã kết thúc mùa trồng rừng, cây giống đã được đem đi trồng, còn các tỉnh phía Nam đã từ lâu ngưng sản xuất cây giống lâm nghiệp. Gọi điện đến tất cả các cơ sở trồng rừng ở miền Bắc, chỉ tìm được hai vườn ương còn cây giống thông ta, nhưng với số lượng ít ỏi. Ôm mối lo ấy đến Huế thì may mắn thay chúng tôi đã được giáo sư Nguyễn Hữu Đính, người thông thạo các cơ sở khảo cứu lâm học ở miền Nam mách nước: lấy thông ta ở vườn ương cây thông Noel Lang Hanh, bên quốc lộ 20...

12 thg 11, 2024

Vườn hoa tên người và ký ức nhân văn

Vườn hoa không chỉ là những không gian xanh công cộng, mà còn là những “bảo tàng ký ức” mang dấu ấn lịch sử và văn hóa sâu sắc.

Từ góc nhìn địa danh học (toponymy), khi vườn hoa được gắn với tên danh nhân, chúng trở thành nơi lưu giữ và truyền tải những giá trị nhân văn, giúp kết nối giữa quá khứ và hiện tại. Mỗi vườn hoa Hà Nội, bởi vậy, nên trở thành một điểm dừng chân để người dân và du khách cảm nhận về ý nghĩa sâu xa của tên gọi, như một lời nhắc nhở về những giá trị nhân văn vượt thời gian.

Vườn hoa Paul Bert, do người Pháp đặt. Đến năm 1945 dưới chính quyền Trần Trọng Kim thì bị xóa bỏ.

10 thg 12, 2023

Thiên Lộc Đường và các nhà thuốc bắc ở Phú Nhuận

Trước năm 1975 riêng ở quận Phú Nhuận của thành phố Sài Gòn, giới chủ tiệm thuốc bắc làm ăn phồn thịnh, số tiệm mở ra khá nhiều mà vẫn có khách…

Vào những năm Nhật Bản đánh chiếm Trung Quốc giữa thập niên 30 thế kỷ trước, có một gia đình gồm đông y sĩ La Đinh cùng vợ, con trai là La Hiên di cư từ tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc đến Sài Gòn. Lúc đó, khu Chợ Lớn tuy có đông đúc người Hoa nhưng ông La Đinh quyết định tìm về Phú Nhuận để sinh sống, trên con đường chính của vùng này là Louis Berland (năm 1952 đổi thành Võ Di Nguy, nay là đường Phan Đình Phùng).

Vài năm sau, năm 1942, tại tư gia ở số nhà 293, sau đổi thành 261 đường Louis Berland, ông La Đinh mở một nhà thuốc bắc hành nghề sở trường của ông, cũng là nghề chính của nhiều người Hẹ (Khách Gia). Nhà thuốc lấy tên Thiên Lộc Đường (hiện nay là tiệm sơn Thạnh Phát Jotun). Nhãn hiệu của Thiên Lộc Đường là “nhạo rượu” in trên nhãn giấy và trên bảng hiệu.

Đông y dược sĩ La Đinh, chủ nhân nhà thuốc Thiên Lộc Đường.

27 thg 9, 2023

Huyền thoại Trương Văn Thanh

Đối với giới sưu tầm nghệ thuật, nhất là với những người thích sưu tầm tranh mỹ nghệ cao cấp của các công ty mỹ nghệ miền Nam trước 1975 như Thành Lễ, Trần Hà hay Mê Linh, họa sĩ Trương Văn Thanh là một nhân vật bí ẩn trong tâm trí của họ.

Qua những câu chuyện chắp vá được từ lời kể của những họa sĩ hay người sưu tầm tranh trước 1975, ông Trương Văn Thanh cùng họa sĩ Nguyễn Thành Lễ gây dựng nên Công ty mỹ nghệ Thanh & Lễ, một công ty mỹ nghệ có nhiều sản phẩm sơn mài, sơn khắc và cẩn được đánh giá cao. “Thanh & Lễ” là tiền thân của Công ty Thành Lễ rất nổi tiếng sau này.

Không có nhiều tài liệu viết về ông Trương Văn Thanh dù sau này khi tách ra từ Công ty “Thanh & Lễ”, ông có công ty mỹ nghệ riêng mang tên mình và vẫn được đánh giá là công ty làm ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, nằm trong nhóm xuất sắc nhất của mỹ nghệ miền Nam trước năm 1975 và cả sau này.

Trong cuốn Niên giám văn nghệ sĩ và Hiệp hội văn hóa Việt Nam 1969-1970, họa sĩ Trương Văn Thanh chỉ được đề cập đến với vài dòng vắn tắt: sinh ngày 18.3.1918 tại Tân Thuận Đông, Sa Đéc, theo học trường Mỹ nghệ đồ gốm, sơn mài, điêu khắc Bình Dương, tỉnh Thủ Dầu Một trong bốn năm. Và các hội đoàn ông đang tham gia.

Ông bà Trương Văn Thanh cùng ba cô con gái khi còn nhỏ. Ảnh: TLGĐ

8 thg 8, 2023

Tiệm kem ở xứ lạnh

Vào một tối mù sương, ta trong vai một thám tử tàng hình bám theo một đôi tình nhân Đà Lạt đang thời hò hẹn. Ta thấy họ khoác tay nhau dạo bước đến một quán chè, sinh tố hoặc tiệm kem trước khi vào rạp Ngọc Hiệp để xem một cuốn phim tâm lý tình cảm.

Trật tự ấy thoạt đầu sẽ ít nhiều khiến ta ngạc nhiên. Nhưng nếu ta là cư dân ở đây lâu năm, ắt sẽ hiểu rằng họ đã đủ ấm để cần thêm một chút khoái cảm giá buốt được thêm vào từ những ly kem hay những ly chè ngọt phủ nước đá xay dưới những mái quán nhỏ của khu phố mang vẻ đẹp mộc mạc mà huê tình.

25 thg 7, 2023

Có một phố Hàng rất khác

Không cứ người Hà Nội mà bất kỳ ai đặt chân tới thủ đô, đều xem 36 phố phường như một biểu tượng văn hóa giúp nhận chân bản sắc đô thị. Những con phố mang tên “Hàng” ngay lập tức khiến người ta liên tưởng tới ngành nghề thủ công hay mặt hàng mà chúng gắn liền. Tuy nhiên, có một biệt lệ: phố Hàng Bè.

Tên người Pháp dành cho phố Hàng Bè là Rue des Radeaux, tức phố của những chiếc bè. Khác với những phố Hàng khác, tên gọi của phố Hàng Bè không phản ánh loại hàng hóa đặc trưng của nó. Con phố này được đặt tên dựa trên vị trí đặc thù và loại phương tiện di chuyển gắn với cư dân địa phương. Để thử lý giải sự khác biệt này, ta cần “theo bè” ngược dòng lịch sử.

Bản đồ Hà Nội năm 1873 của nhà địa lý Frederic Romanet du Caillaud.

Dấu vàng son một vùng ghềnh thác

Cảm thức về thiên nhiên hùng vĩ vốn đậm đặc trong cổ thi hay tranh thủy mặc Á Đông. Một điều đáng kể là vào giai đoạn tiếp biến văn hóa phương Tây trong thời Pháp thuộc, các sản phẩm và thực hành văn hóa vẫn kế thừa cảm thức này. Núi rừng, sơn cước hay sông suối ghềnh thác chiếm một vị trí nổi bật trong các tác phẩm văn học, mỹ thuật, đặc biệt trong tranh của các họa sĩ Trường Mỹ thuật Đông Dương. Chợ Bờ, thác Bờ, Đà giang… là một khu vực như vậy.

Hai bức tranh sơn mài nổi tiếng của Nguyễn Văn Tỵ và Phạm Hậu gần đây được đấu giá rất cao tại một số sàn quốc tế có chung một đề tài về phong cảnh thác Bờ.

Trước khi thủy điện Hòa Bình hoàn thành, tạo ra vùng hồ sông Đà ngập toàn bộ vùng ghềnh thác Bờ, khu vực này đã nổi tiếng hiểm trở với các luồng nước xoáy giữa các ghềnh đá lởm chởm. Trong tín ngưỡng dân gian, nơi đây đã đi vào hệ thống đạo Mẫu với đền thờ bà Chúa thác Bờ cùng bài hát văn trong giá hầu đồng Chầu đệ Tam. Bỏ qua yếu tố nghi lễ, lời văn tô đậm vẻ khác thường của cảnh thác Bờ:

Lô xô đá mọc đầu nguồn
Thiên nhiên khéo tạc trên luồng chơi vơi
Cảnh thác Bờ là nơi thắng tích
Lập ngôi đền thờ thanh lịch biết bao
Sông Đà nước chảy rì rào
Sau đền đá mọc thấp cao mấy tầng
(hát văn bà Chúa thác Bờ)

Cư xá ở Phú Nhuận

Xã Phú Nhuận tuy nhỏ nhưng có lẽ ở thập niên 1950 - 1960 còn nhiều đất trống nên có nhiều cơ quan nhà nước hoặc công ty tư nhân lập nên những cư xá bán trả góp.

Xã Phú Nhuận tuy nhỏ nhưng có lẽ ở khoảng thập niên 1950 - 1960 còn nhiều đất trống nên có nhiều cơ quan nhà nước hoặc công ty tư nhân lập nên những cư xá bán trả góp.

Được sống ở cư xá trước năm 1975 thường là giới công chức hay viên chức của các công ty tư nhân, những người có thu nhập ổn định nên có thể mua trả góp một căn, dưới trệt hay trên lầu. Một căn nhà trong cư xá thường nhỏ (trừ khi chủ nhân có khả năng mua hai căn liền nhau), nhưng cư dân trong đó được sống ở một nơi khá sạch sẽ so với nhà dưới mặt đất trong ngõ hẻm quanh co lúc đó chưa được tráng nhựa, mưa ngập nước và nắng thì tung bụi (là chuyện hồi thập niên 1960, 1970… bây giờ đã khác).

Tôi có viết vài cảm nghĩ về những cư xá được xây dựng ở Sài Gòn thập niên 1960: “Cư xá dịp Tết vui hơn ngày thường. Nhìn từ tầng này thấy tầng kia có người đi chợ về với giỏ đầy trái cây, lạp xưởng, bó hoa bày bàn thờ. Lác đác có người bưng lên mấy chậu bông thược dược, mãn đình hồng mà mặt mày tươi rói. Đêm Giao thừa, nhà dưới trệt bày bàn cúng ngoài trời, nhà trên lầu bày bàn ra hành lang tạo cảnh ánh sáng lung linh giữa trời đêm. Đám con nít mang pháo xuống đốt dưới sân, nhiều người đứng tựa hành lang ngó xuống ngửi mùi pháo trong hơi lạnh. Ngày cuối tuần, đám con trai đứng tựa ban công, ngắm mấy các cô là khách vào cư xá, cô nào cũng diện đẹp hết sẩy, đánh má hồng thoa son” (Trích Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm – cùng tác giả).

12 thg 11, 2022

Sữa đậu nành đến xứ Việt từ khi nào?

Đậu nành được người Trung Hoa và Nhật Bản dùng làm món đậu hũ (đậu phụ) từ rất lâu. Người Việt cũng rất quen thuộc với món ăn này. Nhưng sữa đậu nành, một chế phẩm khác cũng từ đậu nành từ bao giờ xuất hiện ở xứ ta?

Thật may mắn, khi đọc báo Đông Thinh số ra ngày 31.8.1942, mới thấy được câu trả lời cặn kẽ: theo tác giả bài báo “Thỉ tổ sữa đậu nành”, người đầu tiên khuyến khích người Việt dùng sữa đậu nành không phải từ người Hoa sống tại Việt Nam như người ta thường nghĩ mà là một người Pháp làm việc cho chính quyền thuộc địa. Sữa đậu nành đã có mặt tại xứ Việt từ năm 1914.

Ngày nay sữa đậu nành là thức uống thông thường, bán trên lề đường và trong quán giải khát bình dân. Ảnh: TL

Tản mạn về “xóm cù lao” - đường Hương Mão

Những năm 1980, tôi có mấy lần đi vào đường Phan Xích Long mà như lạc vào một vùng quê. Thật lạ lùng, giữa vùng Phú Nhuận lại có một lõm không gian đầy ao rau muống, cầu gỗ chật chội và những túp nhà lụp sụp nằm sát bên bờ rạch mà người ta gọi là xóm cù lao.

Người tôi tìm gặp là Châu, một anh bạn dạy khiêu vũ, trước đó thỉnh thoảng gặp nhau ở lớp dạy nhảy. Ở đó, anh luôn bận sơ mi vàng nhạt, quần kem và giày trắng rất thanh nhã. Nhưng bên bờ ao rau muống ở đây, anh sống trong căn nhà che tạm bợ bên bờ rạch, luôn cởi trần phô bộ ngực lép vì nóng bức. Trời mưa vừa xong, khí ẩm bốc lên ngùn ngụt từ dòng nước đen và chúng tôi nói chuyện giữa không khí hừng hực đó. Ra về, tôi dắt xe đạp ngang qua một chiếc cầu, đến giữa cầu phải lùi xe trở lại vì có mấy con dê được một chú bé chăn dắt cũng đang qua cầu.

Sau này, tôi có dịp đến một ngôi nhà khác cũng trên con đường này, góc đường Phan Đăng Lưu. Đó là một căn biệt thự lớn có sân chung quanh xây từ thập niên 1930. Nhà thoáng rộng và được gìn giữ hoàn hảo, không bị sứt mẻ chút nào. Người tôi đên thăm sống độc thân trong căn nhà lớn cùng vài người thân sống dưới dãy nhà ngang.

10 thg 11, 2022

Hồ Tây… thời khổ

Nghe tranh cãi chuyện xây nhà hát opera - thôi thì dành cho các nhà quản lý, quy hoạch, kiến trúc và các nhà chuyên môn liên quan. Tôi chỉ muốn “những ai đó” nghe chuyện của kẻ từng là “dân Hồ Tây”, đã vào Sài Gòn, xa nó gần 40 năm.

Nhà tôi ở phố Thụy Khê, nhưng hầu như tôi không bao giờ có cảm giác mình ở ven hồ, dù sống được cái thời nghèo đó có lẽ do… thở bằng phóng khoáng gió. Là bởi khu tập thể chen chúc, muốn thấy mặt hồ phải đi vòng sau cả khu, nhà cửa xây bít đi sâu hun hút vào nơi tôi có căn phòng 9 mét vuông, ngăn đôi bên kia bằng tấm gỗ nên mọi trao đổi nói gì hai bên nghe hết cả.

Trẻ con bên nhà kia học bài, mẹ la mắng. Ông bố trẻ lính chiến trường được rẽ thăm nhà, hỏi thẽ thọt cô vợ, có ý phàn nàn sao vợ… cứ cảm tình hoài chưa được kết nạp? (chúng tôi là nhà báo thân nhau nên biết cô ấy cũng lính thẳng tính hay trêu đùa bốp chát, bướng bỉnh - chắc đang… cười). Về với vợ, tưởng… hỏi gì!

Lang thang trên Phú Nhuận xưa

Có thể hình dung đời sống sinh hoạt trên vùng đất Phú Nhuận ngày xưa như thế nào?

Qua các nhà nghiên cứu, đa phần dựa vào tài liệu và báo chí thời Pháp thuộc, chúng ta đã hình dung được những nét căn bản về một vùng đô thị tuy không đóng vai trò quan trọng như vùng Bà Chiểu - Bình Hòa ở Gia Định, không là nơi phồn hoa như thành phố Sài Gòn hay Chợ Lớn nhưng là một vùng đất văn vật, dân cư có phong hóa, nhiều di tích, chùa chiền, nhà thờ… May thay, có vài nhân chứng đã từng thấy một Phú Nhuận xưa cũ cách chúng ta hằng bảy, tám mươi năm.

Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu từng sống ở Phú Nhuận kể rằng vào khoảng năm 1939, nơi đây là một vùng rất thưa dân cư. Nhà cửa hai bên đường Chi Lăng (nay là Phan Đăng Lưu) thuở ấy không có các phố xá như hiện nay mà phần nhiều là những mảnh vườn nho nhỏ. Nhà cửa phần đông cất kiểu nhà sàn thấp, có lẽ vì đất đai còn rất ẩm. Nước dùng toàn là nước kéo từ các giếng, chưa có nước máy như về sau này.

8 thg 11, 2022

Con đường bảy lần thay tên

Đây là con đường dài nhất và rộng nhất trong quận Phú Nhuận (TP.HCM), dài 1.820 m chạy từ cầu Công Lý đến công viên Chiến Thắng, giáp với đường Hoàng Văn Thụ bằng một “mũi tàu” đặt một cây xăng lâu đời hơn nửa thế kỷ. Đường đi ngang qua các phường 8, 10, 11, 12, 15, 17.

Ở cuối thế kỷ XIX, đây chỉ là con đường mòn mang số 26, rồi mang tên đường Impératrice nối dài. Sau đó là 7 lần đổi tên đường: cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là đường Mac Mahon nối dài. Từ năm 1915 thành đường Charles de Gaulle nối dài. Đầu thập niên 1950, thành đường D. Lattre de Tassigny nối dài. Từ năm 1954 đổi thành đường Ngô Đình Khôi. Từ 1963, đổi thành đường Cách Mạng 1.11. Từ năm 1975 đổi thành đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Năm 1985 đổi thành đường Nguyễn Văn Trỗi đến nay.

Nhà văn Sơn Nam xác định trước năm 1932, con đường Mac Mahon còn nhỏ bé, nhà cửa thưa thớt với rẫy trồng rau cải.