25 thg 9, 2025

Người lính già khơi dòng kênh xanh

Kể từ khi chính thức đưa vào khai thác, hệ thống thủy lợi Dầu Tiếng với 2 tuyến kênh chính Đông và chính Tây không chỉ bảo đảm nguồn nước tưới cho tỉnh Tây Ninh (cũ) và các tỉnh, thành lân cận mà còn cung cấp nước sinh hoạt cho hàng triệu người dân trong khu vực, đặc biệt là TP.Hồ Chí Minh. Thế nhưng, hơn 40 năm trước, từ lúc khởi công đến khi chặn dòng sông Sài Gòn là cả một quá trình với không ít khó khăn. Để có được công trình được xem là một trong những hồ thủy lợi lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á, có đóng góp không nhỏ của người con quê hương Đức Hòa, tỉnh Long An cũ, nay là tỉnh Tây Ninh mới. Đó là Đại tá Đặng Văn Thượng - nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh cũ.

Tổng Bí thư Lê Duẩn thị sát công trình thủy lợi Dầu Tiếng trước khi chính thức khánh thành

Tôi không có nhiều cơ hội để tiếp xúc với ông. Khi tôi chập chững bước vào nghề báo, ông rời Tây Ninh đã hơn 10 năm, sắp sửa kết thúc những ngày rong ruổi khắp các tỉnh miền Tây thực hiện chương trình khai thác vùng Đồng Tháp Mười, thoát lũ ra biển Tây của Chính phủ. Trong ký ức, tôi chỉ nhớ ông khá cao người, cánh tay phải bị tật do những vết thương thời chiến tranh.

Hai mươi năm trước, vượt quãng đường trăm kilômét trên chiếc Cub cà tàng, phải dò hỏi mãi, tôi mới tìm được ngôi nhà nhỏ nép mình trong một hương lộ thuộc quận Bình Tân, TP.Hồ Chí Minh. Nghe tôi ở Tây Ninh xuống, Đại tá Đặng Văn Thượng (còn gọi là ông Sáu Thượng) - nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh, chống gậy, chậm rãi từng bước một ra đón. Tôi giật mình, chỉ mới năm ngoái, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2005-2010), trông ông vẫn còn rất khỏe. Dường như hiểu được sự ngạc nhiên của tôi, ông cười: “Mảnh đạn nằm trong đầu gối mấy chục năm chẳng hề hấn gì. Già, tự dưng nó hành, bác phải đi mổ lấy ra. May mà y học bây giờ tiên tiến nên bác vẫn còn đi được. Có điều hơi yếu, nên phải chống gậy thế này đây. Mà Tây Ninh lúc này có gì mới không cháu?”.

Khi đó, ông đã tám mươi, tôi cứ tưởng người lính già Sáu Thượng, đã có thể xếp mọi âu lo, trăn trở về cuộc đời, về thế sự. Ông chặc lưỡi: “Tây Ninh mình phải tiến nhanh, tiến mạnh mới có thể theo kịp các tỉnh, thành trong khu vực”.

Vị chính ủy trên đại công trường thủy lợi lòng hồ Dầu Tiếng

Tháng 6/1975, đang là Chính ủy của Trường Quân chính Miền (nay là Đại học Nguyễn Huệ), Đại tá Đặng Văn Thượng nhận lệnh chuyển về Tỉnh đội Tây Ninh, thay ông Đặng Văn Lý (Mười Đôi) làm Chính ủy khi bọn phản động Pol Pot - Iengsary liên tục đưa binh lính vượt biên giới, tàn sát đồng bào ta. “Ăn chưa hết 30kg bo bo”, tháng 02/1976, Tỉnh ủy Tây Ninh đề nghị Bộ Quốc phòng và Chính phủ đưa ông Sáu Thượng sang làm Chủ tịch UBND tỉnh.

Ông kể: “Căng lắm! Trên biên giới, Khmer Đỏ tập trung quân lăm le tiến sang. Ở dưới này, đời sống Nhân dân thì nghèo đói, bệnh tật; ruộng đất hoang hóa, sức kéo, giống, phân tro,... cái gì cũng thiếu”.

Trợ cấp của Trung ương cũng có hạn, ông Sáu Thượng và ông Hai Phát (Phó Chủ tịch UBND tỉnh) bàn nhau xin phép Tỉnh ủy xuống các tỉnh miền Tây đổi 100 m³ gỗ lấy lúa cứu đói. Thương Tây Ninh đang gồng mình, căng sức chuẩn bị lực lượng, hậu cần cho cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc, các tỉnh miền Tây là Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang,... không lấy gỗ mà sẵn sàng chi viện một máy phát điện 300 KV, 2.000 tấn lúa thịt lẫn lúa giống. Trên đường về, ông Sáu Thượng bàn với ông Hai Phát ghé ngang TP.Hồ Chí Minh gặp ông Bảy Máy - Bộ trưởng Lương thực, xin đổi 1.000 tấn lúa lấy phân tro, cứ 1 kg lúa đổi 2 kg U-rê. Coi như Tây Ninh đã tạm thời vượt qua khó khăn về thiếu hụt lượng thực, lúa giống, phân tro,... tập trung sức dân, thúc đẩy sản xuất.

Thanh niên Tây Ninh, TP. Hồ Chí Minh trên đại công trường thủy lợi Dầu Tiếng

Đồng đất Tây Ninh vốn khô khét vì thiếu nước. Từ trước năm 1975, ngụy quyền Sài Gòn từng có dự án xây dựng công trình thủy lợi Lòng hồ Dầu Tiếng đủ sức cung cấp nước tưới cho tỉnh Tây Ninh, Sông Bé (cũ), Long An và huyện Củ Chi (TP.Hồ Chí Minh), được Ngân hàng Thế giới (WB) đồng ý cho vay hơn 100 triệu USD để đầu tư. Năm 1977, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng (sau là Thủ tướng) cùng với Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Nguyễn Thanh Bình xin phép Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện dự án này và thông qua các kênh ngoại giao, vận động WB nối lại việc cho vay vốn đầu tư. Tuy nhiên, phải trải qua hàng loạt khâu khảo sát, thiết kế, trình dự án, đến ngày 29/4/1981, công trình thủy lợi có hồ chứa nước dung tích 1,85 tỉ m3 nước, lúc ấy chỉ đứng sau Thác Bà nhưng được đánh giá là có năng lực nước tưới lớn nhất Đông Dương mới chính thức khởi công.

Bây giờ, bất kể người Tây Ninh nào ở độ tuổi trung niên cũng đều nhớ một thời cả tỉnh huy động toàn bộ sức dân để đào đắp hệ thống kênh, mương dài hàng trăm cây số. Trong hồi ức của ông Sáu Thượng, ngày ấy, có người nhất quyết không tán thành việc xây dựng công trình thủy lợi Lòng hồ Dầu Tiếng “vì làm gì có nước mà làm hồ”, chỉ hao tốn đất đai, công sức của người dân. Thậm chí ông còn bị nghi ngờ là vì “mưu lợi cá nhân” nên mới nhiệt tình đôn đốc các ngành, các cấp và Nhân dân tham gia xây dựng công trình.

Ông nói như tâm sự: “Bác là lính, hai cuộc chiến tranh đã để lại cho bác
12 vết thương: nặng có, nhẹ có. Bác chỉ hiểu một điều, là người lính, mình phải chấp hành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao. Mặt khác, có hệ thống thủy lợi Lòng hồ Dầu Tiếng đồng nghĩa với việc người dân Tây Ninh và các tỉnh, thành lân cận sẽ không còn sống trong cái cảnh phải trông trời, trông đất, chờ mưa”.

Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh Đặng Văn Thượng (thứ 2, từ trái sang) trao đổi cùng Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Nguyễn Thanh Bình bên công trình xây dựng đập chính hồ Dầu Tiếng, năm 1983

Nhà nhà đi làm thủy lợi, người người đi làm thủy lợi. Ông cùng hai Phó Chủ tịch tỉnh là ông Năm Tú và ông Hai Thiện liên tục đi xuống từng huyện, xã gặp Nhân dân, gặp các vị lãnh đạo tôn giáo để vận động người dân tham gia. Khi 2 trong 5 cửa cống xả của đập tràn bị sự cố, gần như ngày nào ông cũng trực chiến tại công trình. Vụ Đông Xuân 1984-1985, vụ canh tác đầu tiên mà hệ thống thủy lợi hồ Dầu Tiếng đưa vào sử dụng (mặc dù việc thi công vẫn đang tiếp tục), bằng lượng nước tự chảy thì hệ thống kênh Tây đã cung cấp nước cho khoảng 10.000ha, hệ thống kênh Đông khoảng 4.000ha,... Đến năm 1989, hiệu quả bước đầu của khu vực nước tưới thuộc tỉnh Tây Ninh so với năm 1984, khi chưa đưa công trình vào phục vụ: diện tích lúa tăng 10%, năng suất tăng 8,14%, sản lượng tăng 18,93%. Riêng vụ Đông Xuân, diện tích tăng 64,86%, sản lượng tăng 86,1%.

Người có nhiều quê hương

Trong căn phòng khách khá đơn sơ, ông lần giở những trang hồi ký của mình. Ông đọc cho tôi nghe những đoạn thơ ông viết, tuy mộc mạc nhưng chứa chất nỗi nhớ thương những đồng đội đã ngã xuống trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ.

… Ngày nay nhiệm vụ đã tròn,
Tuy vui mà lòng vẫn hãy còn vấn vương.
Nhớ đồng đội, nhớ chiến trường,
Nhớ bao đồng chí thân thương không về.
Từ trong sâu thẳm, ngổn ngang
Còn ai vương vấn nắm xương tàn nơi đâu?

Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo không có ruộng đất, chuyên đi làm thuê tại xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn (tỉnh Long An cũ). Năm 1940, cách mạng nổi dậy, cướp chính quyền xã. 1 người bác, 2 người chú và 1 người anh của ông tham gia cách mạng bị lính Pháp bắn chết, gia đình ông bị ghi vào sổ bìa đen của mật thám. Hình ảnh lính lê dương đàn áp phong trào cách mạng: giết người, đốt nhà, tra tấn, tù đày những người kháng chiến,... đã ghi khắc vào trong tâm khảm của chàng trai trẻ Đặng Văn Thượng. 16 tuổi, ông làm liên lạc đưa tin, thư từ, tài liệu cho cách mạng trong phạm vi huyện Đức Hòa. Ngày 19/8/1945, ông vào bộ đội giải phóng quân liên huyện Đức Hòa - Bà Điểm - Hóc Môn do ông Trần Văn Trà, Tô Ký, Huỳnh Văn Một chỉ huy, tham gia hàng chục trận đánh lớn, nhỏ cho đến ngày tập kết ra Bắc.

Đầu năm 1960, ông cùng 28 đồng chí khác vượt Trường Sơn về Nam. Trên đường đi, mỗi người phải mang ba lô nặng 30 kg, trong đó có vàng và máy liên lạc vô tuyến điện Trung ương viện trợ cho Xứ ủy Nam Bộ. Trên đường đi, mảnh đạn còn sót lại trong phổi ông hoành hành, ói ra máu, tưởng đã phải nằm lại. Nhưng người lính Sáu Thượng không dễ dàng quỵ ngã và càng không thể quỵ ngã vì trước lúc lên đường về Nam, ông được ăn cơm với Bác Hồ, đã quyết tâm với Bác sẽ về đến miền Nam chiến đấu.

Ông Đặng Văn Thượng (bìa phải) và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng, năm 1987

Trước lúc chia tay, Bác đã ôm chặt từng người, căn dặn: “Các chú đi trước, nhớ chuyển lời thăm hỏi của Bác tới đồng bào, đồng chí miền Nam ruột thịt. Rồi nhất định có một ngày, Bác sẽ vô thăm miền Nam”.

Cũng từ những người đầu tiên vượt núi, băng rừng ròng rã suốt 10 tháng trời mới về tới Chiến khu D (Mã Đà, Đồng Nai), tháng 12/1960, tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của chiến trường Nam Bộ được thành lập.

Đồng chí Hai Xô - Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ phụ trách quân sự lúc bấy giờ, nhấn mạnh: “Đây là đốm lửa, và sau này sẽ cháy thành rừng lửa, góp phần cùng toàn dân, toàn quân đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.

Năm 1986, ông Sáu Thượng rời tỉnh Tây Ninh - quê hương thứ hai của ông - chuyển sang làm Ủy viên Thường trực Ban Chỉ đạo việc nghiên cứu chương trình khai thác và phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng Tháp Mười - tứ giác Long Xuyên. Vào thời điểm ấy, Đồng Tháp Mười vẫn còn khoảng 335.000ha đất hoang hóa, chiếm 53% diện tích tự nhiên. Tập quán canh tác lâu đời của người dân trong vùng là sản xuất lúa mùa nổi và lúa mùa 1 vụ năng suất thấp (1-1,2 tấn/ha). Các cây trồng khác hầu như chưa phát triển. Đất đai bị phèn nặng, mùa lũ nước ngập sâu nhưng mùa khô lại thiếu nước ngọt.

Người lính già Sáu Thượng lại lặn lội khắp các đồng bưng Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang cùng các nhà khoa học nắm bắt và phản ánh kịp thời tình hình khai hoang, điều động dân cư vào khu vực Đồng Tháp Mười cho Ban Chỉ đạo và Chính phủ. Thậm chí để vận động nông dân sử dụng giống lúa mới, bỏ hẳn sản xuất lúa mùa nổi và lúa mùa 1 vụ năng suất thấp, chuyển sang sản xuất lúa 2 vụ, 3 vụ năng suất cao, ông Sáu và các nhà khoa học phải đến áp dụng chiến thuật “vết dầu loang”, vận động từ từ, nhà này làm hiệu quả, nhà khác học tập làm theo…

Ông Đặng Văn Thượng (người chống gậy) vận động Quận ủy Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh xây tặng nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách ở huyện Bến Cầu, nay là xã Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, ngày 15/8/2009

Khi Đồng Tháp Mười có lúa để xuất khẩu, ông lại tiếp tục tham gia công tác chỉ đạo việc nghiên cứu thực hiện chương trình thoát lũ ra biển Tây. Mãi đến năm 2000, khi ấy đã 74 tuổi, ông mới nhận được quyết định nghỉ hưu.

Nhưng người lính già Sáu Thượng vẫn chưa thể nghỉ ngơi. Thỉnh thoảng, Tây Ninh hay các tỉnh miền Tây cho xe lên thành phố mời ông về để “tư vấn” việc này, việc khác. Trung tuần tháng 01/2007, Ban Liên lạc Cựu chiến binh Chợ Lớn - Trung huyện lại bầu ông làm Trưởng ban.

Lương đại tá về hưu, khi ấy chỉ vài triệu đồng, ông đã chi hết 1,2 triệu đồng để trợ cấp cho 2 gia đình có công với cách mạng. Ông cười: “Ngôi nhà bác đang ở là nhà tình nghĩa đó. Năm 1990, Nhà nước cấp cho bác miếng đất nhỏ ở xã Bình Trị Đông, huyện Hóc Môn, bây giờ thuộc quận Bình Tân, lãnh đạo Tây Ninh và các tỉnh miền Tây góp tiền lại xây giúp”.

Về hưu, người lính già Đặng Văn Thượng đã có thể mãn nguyện khi có người cháu nội tiếp bước con đường binh nghiệp của ông. Mỗi đêm bên ngọn đèn bàn, ông ghi lại những hồi ức của mình, ông viết cho Báo Tây Ninh những trăn trở về đời sống người dân, về những vận hội mà Tây Ninh có được hay chưa nắm bắt được.

Lúc chia tay, ông bảo: “Bác sinh ra ở Long An nhưng Tây Ninh hay Đồng Tháp, Tiền Giang - những nơi mà bác từng sống và gắn bó đều có thể gọi là quê hương. Mà quê hương thì có ai không nhớ, phải không cháu?”.

Sau lần gặp đó, thỉnh thoảng tôi vẫn còn gặp ông trong những lần ông vận động các tổ chức, cá nhân ở TP.Hồ Chí Minh xây tặng nhà tình nghĩa, Đại đoàn kết ở Trảng Bàng, Bến Cầu,... và các cuộc họp mặt do Tỉnh ủy Tây Ninh cũ tổ chức. Ông mất năm 2013, do những vết thương cũ nhưng hơn 20 năm qua, mỗi khi nhắc lại một thuở “Ta đi xây dựng công trình, công trình xây dựng ta”, người ta vẫn nhớ người lính già Đặng Văn Thượng khơi dòng kênh xanh./.

Đ. H. Thái

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét