17 thg 12, 2025

Một chí sĩ Duy Tân xứ Quảng

Những năm đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp cơ bản đã đặt được nền đô hộ ở nước ta, nhiều phong trào yêu nước liên tục diễn ra. Từ một nhà Nho ở vùng quê nghèo xứ Quảng, cụ Lương Đình Thực đã nhanh chóng trở thành nhân tố quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916.

Dâng hương tưởng niệm tại Bia Tri ân các bậc sĩ phu yêu nước. Ảnh: Tâm Đan

Từ thầy đồ đến hội viên Duy Tân hội

Làng Bãi Dương (nay là thôn Quý Thượng, phường Quảng Phú) đầu thế kỷ 20 là một vùng quê nghèo nằm bên sông Trường Giang. Nhưng mảnh đất ấy lại sản sinh nhiều nhân sĩ yêu nước. Tại nơi này, Lương Đình Thực được sinh ra và lớn lên, sớm hấp thụ truyền thống hiếu học cũng như khí tiết của cha mình là ông Lương Văn Sớm, một chí sĩ từng tham gia phong trào Nghĩa hội Quảng Nam.

Theo gia phả họ Lương thôn Quý Thượng cho biết, cụ Lương Đình Thực tên là Hàm, tự là Ngôn, sinh năm Giáp Tuất (1874), mất năm Đinh Tỵ (1917) tại Bình Định. Còn trong tài liệu tiếng Pháp được lưu trữ tại Trung tâm Quốc gia Hải ngoại Pháp ở Aix-en-Provence thì lại cho rằng cụ sinh năm Canh Ngọ (1870).

Lương Đình Thực là sinh đồ, từng dự thi Tam trường, sau đó trở về mở lớp dạy học tại làng. Do đó người dân địa phương quen gọi ông bằng cái tên giản dị nhưng đầy kính trọng: “Thầy Thự” (Thự là tên con).

Khi Duy Tân hội do Tiểu La Nguyễn Thành và Phan Bội Châu xây dựng lan rộng khắp Trung Kỳ, Lương Đình Thực sớm được kết nạp. Cụ tham gia nhiều hoạt động bí mật, tuyên truyền tư tưởng Duy Tân, gây quỹ, bảo vệ cơ sở, kết nối với các đồng chí ở phủ Tam Kỳ, nơi sau này trở thành điểm khởi sự duy nhất trong cuộc khởi nghĩa 1916.

Không chỉ gắn bó với Duy Tân hội, cụ Lương Đình Thực còn tham gia Việt Nam Quang Phục hội. Một số tài liệu cho biết, cụ từng dự cuộc họp quan trọng tại hồ Tịnh Tâm (Huế) cùng vua Duy Tân, Thái Phiên, Trần Cao Vân và nhiều lãnh tụ nòng cốt khác cùng nhau bàn bạc lập ra một bộ máy chính quyền lâm thời dự kiến cho sau này. Trong đó, cụ Lương Đình Thực được bầu làm Chấp ủy viên Bộ Cải tạo xã thôn, phụ trách chế tạo và cung ứng vũ khí, quân trang.

Được giao trọng trách lớn trong một phong trào cấp Trung Kỳ, giữa hàng loạt chí sĩ xuất thân từ nhiều tầng lớp, điều đó cho thấy cụ Lương Đình Thực là người được tin cậy cả về bản lĩnh lẫn khả năng tổ chức.

Mộ chí sĩ Lương Đình Thực tại khu mộ các chí sĩ yêu nước. Ảnh: Nguyễn Văn Sơn

Tam Kỳ - điểm sáng duy nhất trong cuộc khởi nghĩa

Năm 1916, phong trào kháng Pháp dưới sự lãnh đạo của Thái Phiên và Trần Cao Vân bước vào giai đoạn quyết định. Kế hoạch tổng khởi nghĩa đặt trọng tâm tại Huế, nhưng tại các phủ, huyện khắp Trung Kỳ cũng xây dựng lực lượng phối hợp. Tuy nhiên, kế hoạch bị bại lộ nên việc khởi sự tại Huế đêm 2/5/1916 không thành.

Nhà nghiên cứu Châu Yến Loan nhận định rằng, lúc bấy giờ “phủ Tam Kỳ là nơi có phong trào phát triển rầm rộ. Càng gần đến ngày khởi nghĩa, công việc chuẩn bị càng khẩn trương. Đội nghĩa binh được thành lập ở các làng có đội trưởng, chưởng cơ phụ trách”. Đến ngày khởi nghĩa, trong khi các địa phương khác buộc phải tạm dừng thì tại Tam Kỳ, lực lượng khởi nghĩa gồm các cánh quân vẫn nổ ra theo kế hoạch. Khuya 3/5/1916, cụ chỉ huy đội nghĩa binh Quý Thượng tấn công phủ đường Tam Kỳ cùng tòa Đại Lý nhưng bị thực dân Pháp đàn áp. Qua đó có thể thấy, phủ Tam Kỳ là địa phương duy nhất trên toàn Trung Kỳ thực sự diễn ra binh biến và đã để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Sau thất bại, nhiều thủ lĩnh của phong trào bị bắt. Cụ Lương Đình Thực biết khó tránh khỏi bàn tay truy lùng của thực dân Pháp cùng quan lại triều đình nên về lại nhà dự tính tạm lánh đi nhưng đã bị giặc bắt. Cụ bị giải về khám đường Quảng Nam. Những hồ sơ còn lưu lại cho thấy cụ luôn trả lời rành mạch, trung thực, không khai báo gây hại đồng chí. Với chính quyền thực dân, một người như thế là “nguy hiểm”, nên chúng tuyên án cụ chung thân lưu đày khổ sai nơi Côn Đảo.

Từ nhà lao Bình Định đến cái chết nơi Cửa Giã

Sau bản án, cụ Lương Đình Thực bị chuyển vào giam tại một nhà lao ở Bình Định. Ngày 15/12/1917, chính quyền thực dân đưa cụ từ nhà lao ra Cửa Giã (cửa Thi Nại ngày nay) để xuống tàu ra Côn Đảo. Nhưng tại nơi này, cụ bất ngờ phát bệnh thổ tả, không thuốc men, không được chăm sóc nên đã trút hơi thở cuối cùng trước khi lên tàu.

Ông Đỗ Hùng Luân, cháu ngoại của chí sĩ Lương Đình Thực trong cuốn Nhà yêu nước Lương Đình Thực kể rằng: “Biết tin cụ qua đời, gia đình nhờ người ruột thịt vào tìm rồi táng một hòn đá làm dấu mốc phần mộ - một nấm mộ vun bằng đất cát, do đó trải qua hàng thế kỷ với bao biến đổi làm sao tồn tại? Người thân thích ruột thịt vào tìm mộ đó không thể nào còn nhớ vị trí vì không thể ghi chép hay vẽ bản đồ như sau này”. Đến nay, mộ cụ Lương Đình Thực vẫn còn là một ẩn số.

Dấu ấn để lại cho hậu thế

Trên văn bia Tri ân các bậc sĩ phu yêu nước tại Khu mộ các chí sĩ yêu nước tại phường Quảng Phú có viết: “Đêm 3/5/1916, Nghĩa binh tụ lại Ruộng Trang, tề tựu đoàn quân dưới cờ gần 700 người, rượu thề phục quốc hô vang, phát súng Trần Huỳnh khởi lệnh… Quyết đánh vào Thương Chánh, Hiệp Hòa, đánh qua Phủ đường và đồn Đại lý, lính khố xanh phách lạc hồn kinh. Rủi thay cơ mưu bại lộ, địch đã bố phòng vây bủa nghĩa binh. Trịnh Uyên kéo cờ Ngũ tinh, trúng đạn hy sinh. Địch giăng lính tứ bề, cả mấy trăm người bị bắt. Trần Ni dạt về Quảng Phú trú thân, rồi thọ địch hành hình ngoài Chợ Củi. Lương Đình Thực lui xuống Bãi Dương, cùng đường bị địch bắt giam vào lao tỉnh, sau vong thân lưu lạc phương trời…”.

Những dấu ấn lịch sử ấy không chỉ để tưởng niệm mà còn để nhắc thế hệ trẻ nhớ về một vùng đất đã sản sinh những con người “vị quốc vong thân”. Mà cụ Lương Đình Thực là một trong những hình ảnh tiêu biểu của lớp chí sĩ Quảng Nam đầu thế kỷ 20, giản dị, kiên trung, dấn thân vì chí lớn.

VŨ HOÀI AN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét