1. Các nguồn sử liệu đều ghi lại, làng xưa có tên là Ô Da (tổng Quảng Đại Thượng, huyện Duy Xuyên, phủ Thăng Hoa). Chưa rõ từ lúc nào có chuyện đổi tên gọi phổ biến thành Vu Gia, Ô Gia. Theo từ điển tiếng Chăm, “yă” có nghĩa là “nước”. Ở Quảng Nam ta thường bắt gặp trò chơi phổ biến của trẻ con có tên gọi “ma da lên bờ”. Vì thế có thể hiểu “ma da” có nghĩa là “ma nước”. Phải chăng tên làng Ô Da/Ô Gia ở xã Đại Cường cũ, nay là xã Vu Gia, mang một nét nghĩa là vùng đất cạnh con nước?
Theo lời cô giáo Đỗ Ngọc Sang, người Vu Gia thì thư tịch ghi chép trong Quảng Nam tỉnh tạp biên và Quảng Nam tỉnh xã chí xác nhận, Ô Gia xã có 2 tiền hiền. Người đầu tiên là “Tiền triều Đặc tiến Phò quốc Thượng tướng quân Hà Quận Công”. Người này tuyệt tự, chỉ còn lại ông Đỗ Văn Thư có công quy dân, khai canh lập ấp được tôn là “Kế tiền hiền”, nhưng trong vài giấy tờ khác cũng có lúc ghi là hậu hiền.
Từ xa, lăng mộ Thượng đẳng thần Hà Quận Công (1406 - 1487), uy nghi nằm trên gò đất cao, của xứ đồng Cây Gạo mênh mang biển lúa chín vàng đang vào mùa gặt. Chúng tôi dựng xe bên cạnh con đường bê tông, đi trên lối mòn nồng nàn mùi cỏ dại bước vào khuôn viên lăng mộ.
Cô giáo Đỗ Ngọc Sang vừa nhổ những cây cỏ dại mọc trên nấm mộ vừa “thuyết minh”: “Người trong làng vẫn quen gọi đây là mộ tiền hiền. Tương truyền vào năm 1471, ngài là người lĩnh mạng vua Lê Thánh Tông, vượt Ải Vân quan đi bình Nam, đánh tan giặc tại Bàng An (Điện Bàn) và Vu Gia Trang (Đại Lộc, Quảng Nam). Cùng đi với ngài có Đại công tử được vua phong tước hầu… Ghi nhận công lao to lớn của ngài, vua Lê sắc phong ngài chức Bình Nam Đại tướng quân, kiêm Đô đốc chỉ huy sứ, thăng tước Hà Quận Công và ở lại khai phá, đồng thời trấn giữ vùng đất Vu Gia Trang màu mỡ tốt tươi…”.
Tôi đứng trước hai ngôi mộ lớn, nằm song song cạnh nhau. Mặt trên ngôi mộ được trải một lớp sỏi lấy từ dòng Vu Gia vàng óng như luôn có bàn tay chăm sóc, quét dọn thường xuyên. Xứ đất Cây Gạo được làng chọn làm nơi cải táng ngài Hà Quận Công và con trai như một lời tri ân công lao to lớn của tiền nhân đã khai phá, phát triển vùng đất Vu Gia Trang.
Rời lăng mộ Hà Quận Công lúc vừa đúng Ngọ. Cô giáo Đỗ Ngọc Sang quay sang hỏi: “Đủ sức đi nữa không?”. “Đi đâu nữa vậy?”. Về Ô Gia thì có nhiều chỗ đáng để đi lắm. Đình làng, chùa Quan Thánh, mộ chí sĩ Đỗ Đăng Tuyển…”.
2. Chúng tôi quyết định ghé trụ sở Ủy ban xã Đại Cường cũ, nay là xã Vu Gia, viếng mộ nhân sĩ đất Quảng Đỗ Đăng Tuyển, người được gọi với cái tên rất đỗi thân thương: “Túy Ông” làng Ô Gia. Sở dĩ có danh xưng này là do lúc Nghĩa hội Quảng Nam tan rã, những chiến sĩ Cần Vương cũ lấy việc thu mình và giấu đồng chí làm biện pháp tạm thời, chờ cơ hội. Sau khi phân tán thuộc hạ, ngài Đỗ Đăng Tuyển đã trở về làm ruộng, giả vờ như kẻ chẳng còn thiết tha gì với thời cuộc, mượn men rượu giải sầu, ngâm nga thơ phú để tìm lãng quên…
Thực lòng nếu không có “thổ địa” là cô giáo họ Đỗ hậu duệ của “Túy Ông” thì tôi sẽ luống cuống không tìm ra di tích cấp quốc gia, mộ chí sĩ Đỗ Đăng Tuyển bởi toàn bộ khuôn viên mộ nằm trong khuôn viên cơ quan xã. Cô gái họ Đỗ thắp hương viếng mộ tiền nhân. Một vùng nhang khói mờ tỏ trước mộ phần người chí sĩ Nghĩa hội Quảng Nam khiến tâm can những kẻ hậu thế như tôi vô cùng xúc động.
Cái chết đầy khí phách của “Túy Ông Ô Gia” bằng cách tuyệt thực tại nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) đã để lại bao kính ngưỡng cho đời sau.
Hôm ấy, trước lúc rời Ô Gia, chúng tôi ghé qua khu vườn cũ của cụ Đỗ Chấp Trung, ông nội của cô giáo Ngọc Sang, còn gọi là cụ Cửu Xoa nổi tiếng một thời ở làng. Cũng nói thêm rằng, tộc Đỗ làng Ô Gia là một trong những tộc họ đến định cư lập nghiệp lâu đời tại đây từ thời hậu Lê với công cuộc Nam tiến, mở mang bờ cõi đất phương Nam. Hơn 500 năm tồn tại và phát triển, tộc Đỗ Ô Gia đã sản sinh nhiều nhân tài cho đất nước, trở thành một dòng tộc vững mạnh trong vùng.
Nếu thời kháng Pháp có danh nhân chí sĩ yêu nước Đỗ Đăng Tuyển (1856 - 1911) thì thời kháng chiến chống Mỹ có ông Đỗ Văn Quả được phong tặng Anh hùng lực vũ trang nhân dân 2 lần. Nhìn cái cách bạn tôi bịn rịn ngồi cạnh cái giếng cũ tôi chợt hiểu vì sao những người con Ô Gia đi đâu cũng nhớ về cội nguồn tiên tổ.
Cũng như nhiều làng xã lâu đời khác ở đất Quảng, đời sống tinh thần của cư dân Ô Gia xã rất phong phú. Thời nhà Nguyễn, làng nhận được 23 đạo sắc ban phong cho các vị thần thờ cúng tại đình trải dài các năm từ Minh Mạng đến Khải Định. Dường như đình làng, Phật tự và nhiều miếu mạo đã góp phần hình thành một dòng chảy văn hóa, đạo lý thuần Việt, song hành cùng con nước Vu Gia bao đời tưới tắm vun bồi cho làng xã trường tồn và phát triển...
Những ngày nghe tin các làng mạc ven sông Vu Gia lũ chồng lũ, lòng tôi trĩu nặng âu lo. Điện thoại hỏi thăm cô con gái làng Ô Gia thì nhận câu trả lời: “Lụt to lắm, nước không phải lên mà ập vô nhà. Nhưng được cái bà con mình đã sống quen với lũ lụt nên đến mùa mưa bão đều chuẩn bị tâm thế ứng phó với thủy thần. Thôi thì nghĩ thoáng một chút là nhờ có lụt hằng năm mà cánh đồng làng trĩu nặng phù sa. Qua mỗi trận lụt mới thấy tình người ấm áp”.
Tôi nghe trong điện thoại vẳng lại tiếng cười trong veo xen lẫn tiếng mưa rơi…
Hôm ấy, trước lúc rời Ô Gia, chúng tôi ghé qua khu vườn cũ của cụ Đỗ Chấp Trung, ông nội của cô giáo Ngọc Sang, còn gọi là cụ Cửu Xoa nổi tiếng một thời ở làng. Cũng nói thêm rằng, tộc Đỗ làng Ô Gia là một trong những tộc họ đến định cư lập nghiệp lâu đời tại đây từ thời hậu Lê với công cuộc Nam tiến, mở mang bờ cõi đất phương Nam. Hơn 500 năm tồn tại và phát triển, tộc Đỗ Ô Gia đã sản sinh nhiều nhân tài cho đất nước, trở thành một dòng tộc vững mạnh trong vùng.
Nếu thời kháng Pháp có danh nhân chí sĩ yêu nước Đỗ Đăng Tuyển (1856 - 1911) thì thời kháng chiến chống Mỹ có ông Đỗ Văn Quả được phong tặng Anh hùng lực vũ trang nhân dân 2 lần. Nhìn cái cách bạn tôi bịn rịn ngồi cạnh cái giếng cũ tôi chợt hiểu vì sao những người con Ô Gia đi đâu cũng nhớ về cội nguồn tiên tổ.
Cũng như nhiều làng xã lâu đời khác ở đất Quảng, đời sống tinh thần của cư dân Ô Gia xã rất phong phú. Thời nhà Nguyễn, làng nhận được 23 đạo sắc ban phong cho các vị thần thờ cúng tại đình trải dài các năm từ Minh Mạng đến Khải Định. Dường như đình làng, Phật tự và nhiều miếu mạo đã góp phần hình thành một dòng chảy văn hóa, đạo lý thuần Việt, song hành cùng con nước Vu Gia bao đời tưới tắm vun bồi cho làng xã trường tồn và phát triển...
Những ngày nghe tin các làng mạc ven sông Vu Gia lũ chồng lũ, lòng tôi trĩu nặng âu lo. Điện thoại hỏi thăm cô con gái làng Ô Gia thì nhận câu trả lời: “Lụt to lắm, nước không phải lên mà ập vô nhà. Nhưng được cái bà con mình đã sống quen với lũ lụt nên đến mùa mưa bão đều chuẩn bị tâm thế ứng phó với thủy thần. Thôi thì nghĩ thoáng một chút là nhờ có lụt hằng năm mà cánh đồng làng trĩu nặng phù sa. Qua mỗi trận lụt mới thấy tình người ấm áp”.
Tôi nghe trong điện thoại vẳng lại tiếng cười trong veo xen lẫn tiếng mưa rơi…
NHƯ HẠNH

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét