2 thg 6, 2014

Mùa vàng trên Ngô Đồng giang

Ngồi trên thuyền băng qua Ngô Đồng giang hiền hòa, cái mùi vị ngào ngạt đến lạ và hương thơm của những bông lúa chín vàng khiến chúng tôi cảm nhận rõ rằng một mùa vàng no ấm đang đến trên khắp mảnh đất này...

Dòng sông Ngô Đồng trong xanh chảy giữa những ruộng lúa chín vàng - Ảnh: Đá Tảng

Giữa những đợt nắng oi ả tháng 5, chúng tôi lại lang thang với một hành trình dài tìm về miền đất thanh bình: Tam Cốc, Ninh Bình. Hiện ra trước mắt, mảnh đất nơi có dòng sông Ngô Đồng hiền hòa chảy qua những ruộng lúa chín vàng toát lên một vẻ đẹp thuần khiết mà lộng lẫy.

1 thg 6, 2014

Nước trời Tam Hải

Người dân ở xã Tam Hải, huyện Núi Thành, vẽ hình dáng ngôi làng mình đang sống như một chiếc bầu rượu. Hợp ca của đá và nước bao bọc xung quanh làng và mọi con đường nhỏ xinh, sạch sẽ trong ngôi làng ấy đều dẫn về phía biển. Họ, vui cũng ra biển; buồn cũng ra biển. Nếu bạn có cuộc hành trình về nơi này, sẽ chỉ thấy dấu chân tan trên cát và thu về nét hoang sơ trong những khuôn ảnh.

Nơi này có hẳn một “khu rừng yên lặng” mênh mông dừa, chỗ có hàng trăm viên gạch đá ong xếp chồng thẳng tắp, là bia mộ làng lập cho cá ông từ hàng trăm năm nay. Dù là bình minh nắng lên hay chiều tà, trời và biển chưa bao giờ cách xa nhau ở nơi này. Còn nếu nằm ngủ trưa giữa rừng dừa, sẽ không một giọt nắng nào lọt qua khỏi những tán lá xòe rộng. Tam Hải có đặc điểm khác với các vùng biển trong tỉnh, diện tích đất cát ít hơn nên cây cối ở đây mọc xanh hơn và bóng mát che phủ quanh năm. Biển và làng cách nhau chỉ vài trăm mét. Đi đâu ở Tam Hải đều có thể nghe tiếng sóng biển.

Trời nước và con người cũng tạo thành vẻ đẹp hồn nhiên như xứ sở này.

“Con mắt” Bàn Than. 

Về Tuy Phước ăn bánh xèo tôm nhảy rau mầm

Miếng bánh tráng mỏng gói bên trong là nhân tôm vừa mới chiên, thêm một chút rau mầm, vài sợi xoài chua đem chấm vào bát nước mắm tỏi ớt đậm vị, làm nên món ăn dân dã ngon đến bất ngờ của miền đất võ Bình Định.

Thú vị ngay từ cái tên, bánh xèo tôm nhảy từ lâu đã trở thành thức quà riêng có của quê hương Bình Định, đặc biệt là khu ven biển thành phố Quy Nhơn. Những người sành ăn thường rủ nhau mỗi cuối tuần tìm về tận nơi khởi nguồn ở thôn Mỹ Cang, huyện Tuy Phước (cách thành phố Quy Nhơn khoảng 20 km) để thưởng thức trọn vẹn nhất hương vị của món ăn này. 

Món bánh đơn giản nhưng đậm đà nghĩa tình, nức tiếng gần xa của người dân đất võ. Ảnh: Duy Thịnh. 

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về

Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về

Câu ca dao này rất quen thuộc, và 2 địa danh Gia Định, Đồng Nai cũng rất quen thuộc với mọi người. Gia Định và Đồng Nai ở sát bên nhau như 2 người anh em.

Thế nhưng nếu tìm hiểu kỹ ta sẽ phát hiện một điều hết sức bất ngờ: Gia Định và Đồng Nai với tư cách là những tỉnh - thành chưa bao giờ tồn tại cùng một lúc! Có Gia Định thì không có Đồng Nai, có Đồng Nai thì không có Gia Định!

Thời nhà Nguyễn độc lập, miền Nam Việt Nam có 6 tỉnh và thường được gọi là Nam kỳ lục tỉnh. 6 tỉnh đó là: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

Nam kỳ lục tỉnh, thời kỳ ổn định 1841-1862. Ảnh: Wikipedia

Di tích bãi cọc Bạch Đằng huyền thoại

Ngày nay du khách vẫn có thể tận mắt thấy dấu tích bãi cọc gắn liền với trận đại thắng trên trên sông Bạch Đằng (Quảng Ninh), một biểu tượng cho truyền thống người Việt đánh giặc ngoại xâm từ phương Bắc.

Nằm trên đường trục đường giao thông từ Hà Nội về thành phố Hạ Long, bãi cọc Bạch Đằng ở thị xã Quảng Yên thuộc khu di tích lịch sử chiến thắng Bạch Đằng là điểm dừng chân không thể bỏ qua. Từ ngã tư thị xã Quảng Yên đi về hướng Phà Rừng khoảng 2 km, rẽ trái khoảng 500 m, du khách sẽ đến với bãi cọc Yên Giang, một phần của trận địa cọc Bạch Đằng năm xưa. 

Di tích bãi cọc Yên Giang nằm ở cửa sông Chanh có hình chữ nhật dài khoảng 120 m, chiều rộng khoảng 20 m. Sau lần khai quật đầu tiên vào năm 1958 và nhiều lần sau đó vào các năm 1969, 1976, 1984, 1988... cho thấy cọc ở đây chủ yếu là gỗ lim, táu dài 2,6 - 2,8 m, đường kính 20 - 30 cm. Phần cọc được đẽo nhọn dài 0,5 - 1m để cắm thẳng xuống sông với khoảng cách trung bình 1 m. 

Bãi cọc Bạch Đằng thuộc phường Yên Giang. 

Địa danh Thủ Dầu Một

Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi là địa danh chỉ các đơn vị hành chính các cấp: hạt Thủ Dầu Một (1869), tỉnh Thủ Dầu Một (1899), thị xã Thủ Dầu Một (1975), thành phố Thủ Dầu Một (2002) của tỉnh Bình Dương.

Chợ Thủ Dầu Một đầu thế kỷ XX

Trước nay có 3 cách giải thích về nguồn gốc địa danh này. Thuyết thứ nhất cho rằng, địa danh Thủ Dầu Một có nguồn gốc từ tiếng Khmer “Thun Đoón Bôth” có nghĩa là “gò có đỉnh cao nhất”[1]

Vương Hồng Sển đã bác bỏ giả thiết trên khi cho rằng:”Chữ “đoán” không đúng giọng Thổ, phải nói “doeum” có nghĩa là cây. Bôth,  theo từ điển, pannetier viết doeum pou là “banian” tức cây lâm vồ, cây bồ đề, nơi Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, và người Miên trọng nể cây lâm vồ lắm. Thul là gò”[2]