Hiển thị các bài đăng có nhãn đồ cổ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn đồ cổ. Hiển thị tất cả bài đăng

4 thg 2, 2014

Bảo vật quốc gia - Bia Sùng Khánh và chuông Bình Lâm

Bia đá chùa Sùng Khánh cũng như chuông chùa Bình Lâm đã thoát sự phá hoại của thời gian và giặc Minh, nay được gọi theo tên các di tích gốc của chúng. Cả hai ngôi chùa có bảo vật quốc gia này đều là những di tích nhà Trần hiếm hoi còn lại ở vùng biên cương Tổ quốc.

Chuông chùa Bình Lâm 

Chùa Sùng Khánh hiện ở H.Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, được xếp hạng di tích quốc gia năm 1993. Địa thế của ngôi chùa rất đẹp, phía sau lưng dựa vào núi, mặt quay về hướng đông. Chùa Sùng Khánh được xây dựng năm 1356. Người có công lao to lớn đã gây dựng và để lại cho muôn đời sau một di sản văn hóa vô cùng quý báu đó chính là một vị tướng thời vua Trần Dụ Tông, đời vua thứ 7 của nhà Trần, trị vì từ năm 1341 đến 1369.

Bảo vật quốc gia - Tấm bia tôn vinh Phật pháp thời Lý

Bia Sùng Thiện Diên Linh là bức tranh chữ đồ sộ nhất tôn vinh Phật pháp thời Lý. Nó cũng phản ánh khá đầy đủ về đời sống xã hội no ấm của vương triều này.

Bia Sùng Thiện Diên Linh tại chùa Long Đọi Sơn, xã Đọi Sơn, H.Duy Tiên, Hà Nam - Ảnh: Hoàng Long 

Lý Nhân Tông lệnh tạo tác và ngự đề

Truyền thuyết của vùng Đọi Sơn cho biết đây là đất phát tích đế vương với câu phương ngôn Đầu gối núi Đọi. Chân dọi Tuần Vường. Phát tích Đế vương. Lưu truyền vạn đại. Vua Lý Nhân Tông trên đường kinh lý nhìn thế núi, thế đất đã cho xây dựng chùa và tháp Sùng Thiện Diên Linh cao 13 tầng trên đỉnh núi.

Bảo vật quốc gia - Tấm bia quý thời Lý

Tấm bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc (Tuyên Quang) cho thấy chính sách dân tộc của nước ta xưa kia.

Bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc - Ảnh: Lý Thịnh 

Những năm 1980, khu vực chùa Bảo Ninh Sùng Phúc, còn gọi là chùa Khuân Khoai, thật khó đến do dốc lên dựng ngược, cây cối rậm rạp che khuất, toàn bộ nền chùa bị che phủ... Vì thế, người dân địa phương rất ít lên đó. Nhưng họ vẫn truyền miệng cho nhau nghe về một tấm bia đá ở khu vực phía nam đồi Khuân Khoai. “Sau đó, Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang đã mở một cuộc điều tra. Họ tìm được tấm bia bằng đá xanh xám mịn. Bia cao 1,45 m; rộng 0,8 m; được đặt trên lưng một con rùa. Chính giữa trán bia khắc 6 chữ: Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi”, TS Trần Anh Dũng, Viện Khảo cổ nhớ lại.

Bảo vật quốc gia - Bộ khóa đai lưng 2.500 năm

Bộ khóa đai lưng bằng đồng được tìm thấy ở Phú Thọ cho hình dung về thời kỳ cách đây 2.500 năm.

Ảnh: Hoàng Long 

Ông Nguyễn Xuân Các, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Phú Thọ cho biết bộ khóa đai lưng bằng đồng được khai quật năm 1976, tại mộ táng số 33 thuộc di chỉ khảo cổ học Làng Cả, P.Thọ Sơn, TP.Việt Trì, tỉnh Phú Thọ và hiện được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Phú Thọ.

Bộ khóa đai lưng trên dài 21 cm, rộng 5,5 cm, nặng 380 gr, được làm từ chất liệu đồng thau, màu xanh xám, gồm 4 cặp rùa (8 con) móc lại với nhau. Đáng tiếc là khi được tìm thấy, nó đã bị gãy mất một móc ở phía dưới và 5 móc phía trên.

Bảo vật quốc gia - Xá lợi tháp minh - văn bia cổ nhất

Bia Xá lợi tháp minh tại Bắc Ninh được xác định là tấm văn bia cổ nhất ở nước ta.

Văn bia Xá lợi tháp minh - Ảnh: ThS Phạm Lê Huy 

Năm 2004, ông Nguyễn Văn Đức (thôn Xuân Quang, xã Trí Quả, H.Thuận Thành) đào đất làm gạch ở gần khu vực chùa làng, đã va phải một vật rất cứng. Đó chính là tấm bia Xá lợi tháp minh. Khi đó, bia gồm hai phần úp khít vào nhau, được kết dính bằng một chất nào đó chưa rõ, phải dùng mai đào đất mới tách đôi được. Bia được tìm thấy cùng một hòm đá cũng bao gồm phần nắp và phần thân. Ông Đức sau đó mang tấm bia này cất giữ đến năm 2012. Trong thời gian này, ông có cho một vài người biết đôi chút chữ Hán Nôm xem.

3 thg 2, 2014

Bảo vật quốc gia - Tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay

Bức tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay chùa Hội Hạ, hiện lưu tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, tiêu biểu cho di sản mỹ thuật Phật giáo thời Lê Trung hưng.

Gian nan dời tượng quý

Tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay chùa Hội Hạ, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật - Ảnh: Ngọc Thắng 

Nhà nghiên cứu Trần Thức không bao giờ quên nhiệm vụ trọng đại mà Viện trưởng Viện Mỹ thuật Nguyễn Đỗ Cung giao cho mình hồi năm 1964. Ông Cung mời ông Thức lên và nói: “Nhờ đồng chí lên chùa Hội Hạ, xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, Vĩnh Yên, nơi có pho tượng Phật bà Quan âm khá đẹp. Tôi đã có dịp xem và tìm hiểu, mời đồng chí đến xem, nghiên cứu; nếu thấy được thì ta đề nghị nhà chùa và địa phương nhường cho Bảo tàng Mỹ thuật đưa về Hà Nội giới thiệu với nhân dân và quốc tế thì thật tốt”.

Bảo vật quốc gia - Vạc đồng Cẩm Thủy

Là hiện vật độc bản và hoàn hảo, vạc đồng Cẩm Thủy vừa được công nhận là bảo vật quốc gia.

Vạc đồng Cẩm Thủy - Ảnh: Ngọc Minh 

Tuy nhiên cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được vạc đồng Cẩm Thủy được dùng vào mục đích gì và tại sao một vị quan khâm sai lại cho làm ra chiếc vạc này.

Năm 1981, trong quá trình đào đắp một công trình tại khu vực ngã ba Đình Hương, thuộc địa bàn P.Hàm Rồng, TP.Thanh Hóa, Ban chỉ huy quân sự TP.Thanh Hóa đã phát hiện ra chiếc vạc này. Sau đó, chiếc vạc được mang về bảo quản tại trụ sở Ban chỉ huy quân sự TP.Thanh Hóa và mãi đến ngày 1.8.2002, chiếc vạc quý mới được bàn giao cho Bảo tàng Thanh Hóa quản lý và trưng bày.

Bảo vật quốc gia - Ba pho tượng đá chùa Linh Ứng

Nếu như bệ đá tam thế thời Trần còn lại nhiều, thì tượng tam thế thời này còn lại rất ít. Ba pho tượng đá chùa Linh Ứng nằm trong số ít ỏi đó.

Ba pho tượng tam thế chùa Linh Ứng - Ảnh: Tư liệu 

Hồ sơ bảo vật quốc gia của tỉnh Bắc Ninh cho biết tượng tam thế chùa Linh Ứng ra đời đầu đời Trần, thế kỷ thứ 13. Chùa đã bị phá hủy nhiều lần, nhưng 3 pho tượng tam thế tạc bằng đá này vẫn còn. Đây là những tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ.

Từ bi và phật tính

Cũng theo hồ sơ, cả 3 pho tượng đều có nhiều nét giống nhau là từ bi và phật tính. Các pho tượng bằng đá xanh, cấu tạo thành 3 phần: bệ tượng, tòa sen, thân tượng, đều ở trong tư thế, sắc tướng của tượng tam thế trong tòa tam bảo. Chúng cũng giống nhau về trang phục. Tuy nhiên mỗi pho tượng đều có những chi tiết, họa tiết riêng, thể hiện cá tính, hình thức và sắc thái tư duy khác nhau. Cụ thể là khác nhau cách ngồi thiền.

2 thg 2, 2014

Bảo vật quốc gia - Ba khẩu thần công dưới đáy biển

Được phát hiện và trục vớt lên sau gần 200 năm chìm dưới đáy biển, ba khẩu thần công triều Nguyễn còn nguyên vẹn với những hoa văn tinh xảo đúc nổi trên thân súng.

Một trong ba khẩu thần công sau khi được phục chế - Ảnh: K.Hoan 

Giữa tháng 8.2003, trong khi đang lặn sò ngoài khơi vùng biển Hà Tĩnh, cách đất liền 36 hải lý, một nhóm thợ lặn người xã Cẩm Lĩnh, H.Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh phát hiện một con tàu cổ chìm dưới đáy biển. Nhóm thợ lặn này đã đào bới để tìm kiếm cổ vật và phát hiện một số cổ vật quý, trong đó có 3 khẩu thần công. Sau 10 ngày tìm cách trục vớt 3 khẩu súng này nhưng không thành vì súng có trọng lượng quá nặng, những thợ lặn đã hợp tác với một chủ tàu có cần cẩu ở xã Thạch Kim, H.Thạch Hà ra trục vớt súng với phương thức ăn chia cổ vật. Khi khẩu thần công thuộc phần chủ tàu được mang đi bán thì bị công an phát hiện, thu giữ. Từ đó, Bảo tàng Hà Tĩnh biết tin và đến vận động người dân giao nộp hai khẩu còn lại.

Bảo vật quốc gia - Mộ thuyền Việt Khê

Mộ thuyền Việt Khê là minh chứng điển hình cho táng thức và táng tục Đông Sơn.

Mộ thuyền Việt Khê - Ảnh: Ngọc Thắng 

Năm 1961, cuộc khai quật ở xã Phù Ninh, H.Thủy Nguyên, Hải Phòng phát hiện 5 chiếc quan tài hình thuyền. Quan tài là những thân cây khoét rỗng, dài hơn 4 m, có nắp. Tìm được 5 nhưng chỉ một chiếc còn các vật chôn theo. Đầu to của thuyền có đồ đồng lớn như trống, thạp, đỉnh, bình. Đầu nhỏ có rìu, đục, dao găm. Chiếc quan tài duy nhất có chứa hiện vật giờ đây đã trở thành bảo vật quốc gia - mộ thuyền Việt Khê, đang trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia.

Theo các chuyên gia lịch sử, tục chôn cất người chết xưa hết sức phong phú. Mộ táng thời Đông Sơn có loại mộ huyệt đất, mộ có quan tài hình thuyền, mộ nồi vò... Người Đông Sơn cho rằng cái chết chấm dứt cuộc sống ở thế giới bên này, mở ra cuộc sống ở thế giới bên kia. Sang bên đó, họ vẫn tiếp tục lao động, sinh hoạt và chiến đấu. Vì thế, người Đông Sơn khi chết đều thực hiện táng tục giống nhau. Người chết được chôn cùng đủ ba loại đồ vật: sinh hoạt, công cụ sản xuất và vũ khí.

Bảo vật quốc gia - Bia Vĩnh Lăng - bản hùng ca trên đá

Bia Vĩnh Lăng tại Lam Kinh (Thanh Hóa) do Nguyễn Trãi phụng thảo ghi lại thân thế, sự nghiệp của Thái tổ Cao Hoàng đế Lê Lợi không những có giá trị tài liệu lịch sử gốc, mà còn là tài liệu quý cho các nhà khoa học khi nghiên cứu về nghệ thuật trang trí, điêu khắc thời Lê.

Bia Vĩnh Lăng tại Khu di tích lịch sử Lam Kinh (xã Xuân Lam, H.Thọ Xuân, Thanh Hóa) - Ảnh: Ngọc Minh 

Vùng đất Lam Sơn (xã Xuân Lam, H.Thọ Xuân, Thanh Hóa) là quê hương của anh hùng dân tộc Lê Lợi - vua Lê Thái Tổ. Cũng chính nơi đây, Lê Lợi đã mang cả sản nghiệp của gia đình để chiêu hiền đãi sĩ, hội tụ nhân tâm làm nên cuộc khởi nghĩa 10 năm đánh đuổi giặc Minh ở thế kỷ 15, lập ra vương triều nhà Lê kéo dài tới 360 năm. Năm 1430, vua Lê Thái Tổ cho đổi vùng đất Lam Sơn thành Tây Kinh (hay Lam Kinh).

1 thg 2, 2014

Bảo vật quốc gia - Kiếm ngắn núi Nưa

Được phát hiện vào năm 1961 ở căn cứ khởi nghĩa của Bà Triệu tại chân núi Nưa, xã Tân Ninh, H.Triệu Sơn (Thanh Hóa), kiếm ngắn núi Nưa được dân gian liên tưởng đây là thanh kiếm lệnh của Bà Triệu trong cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của phương Bắc.

Kiếm ngắn núi Nưa đang được bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng Thanh Hóa - Ảnh: N.M 

Tại Bảo tàng Thanh Hóa hiện nay đang lưu giữ và trưng bày những bộ sưu tập binh khí thuộc thời đại văn hóa Đông Sơn hết sức đa dạng và phong phú. Độc đáo và nổi bật nhất là thanh kiếm ngắn núi Nưa có cán là khối tượng hình người phụ nữ. Theo đánh giá của một số nhà nghiên cứu thì kiếm ngắn núi Nưa có cấu trúc, kiểu dáng, tiêu chí thẩm mỹ nghệ thuật rất đẹp; là kiếm ngắn đẹp nhất trong các kiếm ngắn có khối tượng người ở Việt Nam.

Bảo vật quốc gia - Tượng đá ẩn mình trốn giặc

Tượng Phật Adiđà bằng đá thời Lý ở chùa Ngô Xá (Nam Định) có mấy trăm năm ẩn mình dưới lớp sơn son, thếp vàng như một tượng gỗ bình thường để lưu lại cho kho tàng bảo vật quốc gia một khuôn mặt Phật độc đáo.

Pho tượng Phật bằng đá thời Lý - Ảnh: Hoàng Long 

Giả làm tượng gỗ

Tượng hiện đang được thờ tại chùa Ngô Xá (tên chữ là “Phi Lai tự”) ở thôn Ngô Xá, xã Yên Lợi, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Các cuộc khai quật, khảo cổ bắt đầu vào những năm 1960 - 1970 tại đây đã phát hiện một lượng lớn lên tới hơn 200 hiện vật bằng nhiều chất liệu, liên quan đến Phật giáo thời Lý. Tuy nhiên, điều mà các nhà nghiên cứu, khảo cổ quan tâm nhất là tượng Phật, dù các mảnh vỡ lại không hề thấy xuất hiện.

Bảo vật quốc gia - Thạp Hợp Minh - Quan tài cho người quyền quý

 GS Hà Văn Phùng, thạp Hợp Minh đã khiến Yên Bái trở thành một cái tên gắn với văn hóa Đông Sơn sáng giá.

Trong một bài viết trên Tạp chí Khảo cổ học, GS Hà Văn Phùng, nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ học đã nói về thời điểm tìm thấy thạp Hợp Minh - năm 1995. Khi đó, niềm tự hào về văn hóa Đông Sơn của Yên Bái chỉ là Đào Thịnh (thạp đồng Đào Thịnh là bảo vật quốc gia đợt 1 - NV). Niềm tự hào Đào Thịnh đó cũng đã cách xa hàng chục năm, kể từ khi nó được tìm thấy tại H.Trấn Yên, Yên Bái. “35 năm sau, cũng ở H.Trấn Yên, cách khu di tích Đào Thịnh không xa, người ta lại phát hiện một di tích mới. Đó là di tích Hợp Minh. Dân quân xã Hợp Minh đã tìm thấy di tích này khi đào công sự. Nhờ đó thạp đồng nguyên vẹn đã được tìm thấy”, GS Phùng nhớ lại.


PGS-TS Tống Trung Tín khảo sát thạp Hợp Minh - Ảnh: tư liệu báo Yên Bái 

Khi đó, theo các nhà khảo cổ, thạp được tìm thấy nguyên vẹn, trong đó có một bộ hài cốt; cũng có một số hiện vật như rìu, chuông, dao găm, khuyên tai và một số mảnh gốm vụn. Phía trên, bên ngoài thạp đồng còn tìm thấy một âu đồng ba chân đã bị vỡ làm nhiều mảnh.

Sự nguyên vẹn được giữ gìn

Nghiên cứu của GS Phùng cho thấy thạp đồng Hợp Minh còn nguyên vẹn có nắp đậy. “Đây là một trong số những thạp được giữ gìn tốt nhất từ trước đến nay. Tuy kích thước của thạp không lớn bằng Đào Thịnh nhưng lớn hơn thạp Vạn Thắng, Xuân Lạp. Điều đáng chú ý là hoa văn trang trí trên thạp rất sống động”, GS Phùng viết.

Cũng theo ông Phùng, các mô típ được kết hợp một cách nhuần nhuyễn, hài hòa với nhiều chủ để sinh động, vừa cách điệu vừa hiện thực. Hoa văn trên thạp Hợp Minh không chỉ thể hiện các mô típ truyền thống như trên các thạp đồng mà còn có nhiều mô típ miêu tả cảnh sinh hoạt như trên nhóm trống đồng Heger I (dựa theo phân loại của nhà khảo cổ học người Áo Franz Heger).

Về kỹ thuật, thạp đồng Hợp Minh nặng 13,5 kg, đúc bằng khuôn hai mang. Đường giáp khuôn chia thạp thành hai nửa bằng nhau. Đó cũng là ranh giới phân chia các mảng hoa văn, không làm ảnh hưởng đến đường nét của các đồ án.

Thạp cũng có đôi quai hình chữ U lộn ngược đối xứng nhau qua thân. Đôi quai này được gắn ở miệng và cao vượt hẳn lên trên miệng. Ở lòng mỗi quai hình chữ U ta thấy người xưa còn gắn thêm một quai hình nui thuyền nhỏ. Sát với mép của nắp thạp cũng vậy. Khi nắp thạp đóng lại, chúng gắn khít với nhau.

Thạp cũng còn có cảnh 2 người hóa trang đứng đối diện, chân trước chân sau, tóc dài, chày đâm xuống một vật hình chiếc cối. Còn có cả cảnh người đang làm động tác như sàng sảy.

Tượng tròn gắn trên thạp Hợp Minh thuộc loại chim nước. Nó khác với tượng hổ báo trên thạp Vạn Thắng, tượng vật trên thạp Xuân Lộc.

Cấu trúc của tia mặt trời trên thạp Hợp Minh giống hệt các tia mặt trời trên trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa. Một số mảng hoa văn trên thân thạp được lặp lại các họa tiết thường thấy trên các thạp nhỏ. Đó là đường tròn đồng tâm có tiếp tuyến, răng cưa, vạch ngắn song song, chữ S gãy khúc.

Thạp cũng có mảng hình chim khắc chìm mô phỏng một loại chim nước như loại tượng chim gắn trên nắp thạp song đã cách điệu. Hình dáng của loại chim này ta từng thấy khắc trên thạp Vạn Thắng 1. “Vành 30 là những con thú tạm gọi là hươu nai. Tuy nhiên, nó lại không giống một loại hươu nai nào trên nhóm trống đồng Ngọc Lũ. Đây cũng là một đề tài cần sự giúp sức của các nhà động vật học để xác định tên gọi của chúng trong quá khứ cũng như trong hiện tại”, GS Phùng đánh giá.

Nghiên cứu những hoa văn khắc trên thạp, cho thấy chủ nhân của những hoa văn này cũng chính là chủ nhân những bức tranh trên trống đồng Ngọc Lũ. Do vậy, thạp Hợp Minh cùng với trống Ngọc Lũ, thạp Đào Thịnh cũng cùng niên đại.

Theo PGS-TS Trịnh Sinh, Viện Khảo cổ học phân tích thành phần hợp kim thạp đồng Hợp Minh cho thấy thành phần chủ yếu là đồng, thiếc, chì. Đó là thành phần cơ bản và ổn định của các di vật đồng văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam.

Không chỉ để dùng làm đồ đựng

Tư liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Quang cho biết người trực tiếp mở nắp thạp khi mới tìm thấy là anh Hà Xuân Trùy. Anh Trùy nhớ lại, khi ấy, mép thạp thấy một lớp màng màu đen phủ phía trên. Bóc đi lớp mảng màu đen này xuất hiện một lớp mền bằng vỏ một thực vật màu xám. Dưới lớp mền là bộ xương đặt ở tư thế ngồi, lưng tựa vào thành thạp, mặt nhìn ra hướng sông. Bên cạnh đó có 1 con dao găm, 1 quả chuông nhỏ, 1 khuyên tai đá 4 mấu.

PGS-TS Nguyễn Lân Cường, Viện Khảo cổ cho biết bộ xương đã được thu thập cẩn thận. Các mảnh sọ, xương chủ, xương sườn, đốt sống đã được gắn chắp và đo chỉ số. Qua giám định sơ bộ thấy đây là hài cốt của một bé gái chừng 4 - 4 tuổi rưỡi.

“Phát hiện di tích Hợp Minh khẳng định chắc chắn một trong những công dụng của thạp là được dùng để làm quan tài chôn người chết, ngoài việc dùng làm đồ đựng, vật tùy táng”, GS Phùng viết.

Trước đó, văn hóa Đông Sơn chỉ có sọ người trong thạp ở Thiệu Dương, hoặc than trong thạp Vạn Thắng, Đào Thịnh. Từ đó, các nhà khoa học cũng chỉ dừng lại ở giả thuyết về việc dùng thạp để chôn người đã cải táng hay hỏa thiêu. “Bộ cốt trẻ em còn nguyên vẹn chứng tỏ thạp đồng đã có lúc dùng làm quan tài để chôn người chết, nhưng không phải phổ biến. Điều đó chỉ có được với những người quyền uy giàu có. Còn hầu hết những thạp dùng trong mộ cùng những đồ tùy táng khác đều thuộc loại nhỏ, hoa văn trang trí đơn giản và hầu hết là đồ minh khí”, GS Phùng khẳng định.


“Thạp đồng Hợp Minh một trong những thạp lớn nhất, trang trí hoàn mỹ nhất của văn hóa Đông Sơn. Yên Bái đã lấy hình mặt thạp đồng làm biểu tượng của truyền hình tỉnh. Nó cũng là biểu tượng, biểu trưng tự hào của tỉnh” - PGS-TS Bùi Văn Liêm, Phó viện trưởng Viện Khảo cổ.



Trinh Nguyễn

24 thg 1, 2014

Bảo vật quốc gia - Trống đồng Cẩm Giang

Thông thường, mặt của các trống đồng tìm thấy ở Việt Nam được gắn tượng cóc, nhưng mặt trống đồng Cẩm Giang lại được người xưa thay các tượng cóc bằng 4 khối tượng vịt. 

Trống đồng Cẩm Giang đang được bảo quản trưng bày tại Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa - Ảnh: Ngọc Minh 

Nói “không” với số tiền bằng ngôi nhà mặt tiền

Trong câu chuyện xoay quanh những bảo vật quốc gia đang được Bảo tàng Thanh Hóa quản lý, trưng bày, bà Nguyễn Thanh Hiền - Phó giám đốc Bảo tàng Thanh Hóa - vẫn không thể nào quên được chuyến đi thu nhận chiếc trống đồng Cẩm Giang từ gia đình một người dân ở xã Cẩm Giang, H.Cẩm Thủy, Thanh Hóa. Đó là chuyến đi mà cho đến tận bây giờ bà Hiền vẫn chưa thôi áy náy khi nghĩ về sự thiệt thòi của người tìm thấy chiếc trống quý giờ đã được công nhận là bảo vật quốc gia.

Bảo vật quốc gia - Chân đèn, lư hương thời Mạc

Ông Nguyễn Văn Thư, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Nam Định, cho biết trong hàng ngàn hiện vật đang có mặt tại đây thì bộ chân đèn, lư hương bằng gốm thời Mạc được 'chăm sóc' với chế độ đặc biệt nhất.

Chiếc chân đèn thời Mạc - Ảnh: Hoàng Long 

Được chế tạo cùng ngày

Đây là một trong 2 cổ vật duy nhất của Nam Định được công nhận là bảo vật quốc gia. Theo ông Thư, lý do xếp cả hai hiện vật này vào bộ bảo vật quốc gia vì cả 2 đều được tìm thấy tại một địa bàn là huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Trong đó, chân đèn được sưu tầm tại đình Cự Trữ, còn bát hương tại chùa Cổ Chất gần đó. Căn cứ vào các dấu tích lưu lại trên bảo vật thì mặc dù có nguồn gốc tại 2 di tích khác nhau nhưng chúng đều được sản xuất cùng bằng chất liệu gốm men và cùng một thời gian là ngày 20.8.1590 thời Mạc Mậu Hợp.

23 thg 1, 2014

Bảo vật quốc gia - Huyền thoại quả chuông đồng thời loạn

“Dù bài minh văn trên chuông chưa được đọc hoàn chỉnh nhưng hoa sen và hình rồng cho thấy đây là tác phẩm thời Trần”, PGS-TS Nguyễn Đình Chiến, Phó giám đốc Bảo tàng Lịch sử quốc gia cho biết. 

Chuông chùa Vân Bản, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, Hà Nội - Ảnh: Ngọc Thắng 

Trong lần công nhận bảo vật quốc gia này, Bảo tàng Lịch sử quốc gia (LSQG) không gửi nhiều hồ sơ hiện vật. Trong số ít hồ sơ đó có chuông chùa Vân Bản. Quả chuông quý này ngay lập tức trở thành bảo vật quốc gia. Nó cũng là một trong số ít hiện vật bằng đồng được tuyển chọn trong cuốn Cổ vật Việt Nam do bảo tàng in cách đây vài năm.

Bảo vật quốc gia - Tượng rồng đá kỳ lạ

Tượng rồng đá ở đền thờ Lê Văn Thịnh có tạo hình vô cùng kỳ lạ: miệng cắn chân, thân xé mình. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng bảo vật quốc gia này không phải rồng mà là rắn.

Tượng rồng đá (xà thần) ở đền Thái sư Lê Văn Thịnh, Bắc Ninh - Ảnh: Đỗ Nguyễn 

Trước thềm 1.000 năm Thăng Long, đền thờ thái sư Lê Văn Thịnh đã được Bắc Ninh chọn làm 1 trong 4 di tích trọng điểm kỷ niệm đại lễ. Ở độ sâu 50 cm của 2 hố khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện được vật quý, đó là 2 khúc tượng rồng với mỗi khúc dài xấp xỉ 60 cm, cao 35 cm và rộng 40 cm. Đặc biệt, phần chân rồng hoàn toàn nguyên vẹn, có móng vuốt sắc bám chặt vào thân.

6 thg 6, 2013

Cổ vật Việt ở nước ngoài: Những báu vật của vương triều Champa

Theo thông tin và hình ảnh được công bố trong các công trình nghiên cứu của các học giả ngoại quốc, trong các sách hướng dẫn tham quan của một số bảo tàng ở hải ngoại và trong các vựng tập của các nhà đấu giá cổ vật ở châu Âu và châu Mỹ thì hiện có ít nhất 9 linga-kosa (đa số chỉ còn phần đầu tượng Siva) của Champa đang "lưu lạc" ở hải ngoại. 


Cơ duyên với linga-kosa

Tháng 9/1997, khi đang đi học khảo cổ ở Nhật Bản, tôi nhận được e-mail của một anh bạn người Đức, là một chuyên gia về mỹ thuật cổ châu Á, cho biết từ ngày 13/10 đến 14/11/1997, nhà đấu giá Spink ở London (Anh) sẽ tổ chức đấu giá 32 cổ vật đến từ Đông Nam Á, trong đó, có rất nhiều cổ vật Champa của Việt Nam.

25 thg 2, 2013

Tinh hoa cổ vật Việt

Vừa qua, Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam phối hợp với Hội cổ vật Thăng Long - Hà Nội tổ chức trưng bày chuyên đề “Cổ vật Việt Nam” gồm hơn 50 cổ vật tiêu biểu, đặc sắc, được chọn lựa kỹ lưỡng từ bộ sưu tập của các cá nhân và Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam.

“Cổ vật Việt Nam” gồm nhiều hiện vật làm từ các chất liệu vàng, bạc, đồng, gốm… có niên đại từ văn hoá Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2.500 năm tới thời các chúa Nguyễn (1533 - 1777). Cổ vật phong phú, làm bằng đồng như trống đồng, ấm, chuông, thạp, chân đèn, bình, bát, muôi, chóe... Gốm có gốm men nâu, men trắng, hoa, màu, hoa lam, men lục... Trưng bày chuyên đề mở đầu bằng các cổ vật, trống đồng Đông Sơn, công cụ đồng, tượng người và thú, dao gắn đồng, muôi đồng, đèn đồng... minh chứng cho thời kỳ rực rỡ của văn hoá Đông Sơn. 

Kendy gốm thế kỷ V-VII.