Đình còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ, trong đó có 3 sắc phong thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, thần Bạch Mã và 4 vị thần Đại Càn Quốc Gia Nam Hải của vua Tự Đức ban vào năm 1852. Bên cạnh các vị thần trong tín ngưỡng dân gian, tiền hiền, hậu hiền, gian bên trái thần Thành Hoàng có khánh thờ thần Nguyễn Văn Có.
Các cụ trong Ban Khánh tiết đình cho biết: “Ông Nguyễn Văn Có làm lính (cai) trong dinh Tỉnh trưởng Tân An thời Pháp thuộc. Một hôm, chẳng may vợ của Tỉnh trưởng bị té xuống sông Vàm Cỏ Tây. Ông Có vội nhảy xuống sông cứu. Không lâu sau, ông Có bệnh và mất. Tưởng nhớ công lao ông cứu sống vợ mình, Tỉnh trưởng nhờ nhà nước Pháp can thiệp với triều Nguyễn, phong thần cho ông và thờ ở đình từ đó đến nay”, việc này xưa nay ít thấy và phản ánh một phần xã hội lúc bấy giờ.
Trong khuôn viên đình còn có miếu Điền cho thấy việc đề cao nông nghiệp trong vùng đất này từ xưa đến nay. Hằng năm, ở đình có nhiều lễ cúng như lễ Kỳ yên vào ngày 15, 16/2 (Nông lịch), Tống phong ngày 16/3, Hạ điền 16/5, Cầu bông 16/8, Thượng điền 16/12 với các nghi thức cổ truyền.
Trước sân đình còn có bàn thờ thần Nông và miếu thờ ông Hổ, được xây dựng khi lập đình. Điểm nổi bật của đình là còn gìn giữ cẩn thận 2 sắc phong của vua Thiệu Trị ban vào năm 1845 và vua Tự Đức ban vào năm 1852.
Theo cổ lệ, đình Xuân Sanh diễn ra 3 lễ hội chính trong năm gồm Kỳ yên ngày 16/12, Cầu bông ngày 12/10 và Hạ điền ngày 16/6 (Nông lịch). Các nghi lễ được thực hiện theo tập tục truyền thống như các đình Nam Bộ, tuy nhiên nghi thức được gia giảm và có phần đơn giản hơn.
Đình là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử cách mạng ở địa phương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Ngày nay, đình Xuân Sanh vẫn tiếp tục phát huy giá trị là nơi sinh hoạt cộng đồng, văn hóa, tín ngưỡng phục vụ nhu cầu người dân bản địa.
Trong tiến trình mở cõi nơi vùng đất này còn ghi nhận những đóng góp của cộng đồng người Hoa, những dấu ấn đó được thể hiện qua tín ngưỡng và những ngôi miếu, đậm nét hơn hết tại miếu Quan Thánh Đế và sự giao thoa văn hóa Việt - Hoa tại các ngôi miếu bà.
Ngôi miếu mang nét đặc trưng của kiến trúc Hoa, sử dụng hoa văn tứ linh là chủ đạo, hệ thống bao lam, hoành phi, liễn đối được chạm khắc tinh xảo, miếu còn lưu giữ 2 bộ tượng Quan Công, tượng Thánh Mẫu, tượng Bổn Đầu Công, các tranh kiếng, tranh gói vải, tranh giấy cùng nhiều hiện vậy quý có giá trị nghệ thuật và lịch sử.
Đây còn là nơi sinh hoạt của cộng đồng người Hoa Triều Châu, Phước Kiến, Quảng Đông, Khách Gia ở phường Long An. Hằng năm, tại miếu tổ chức cúng lớn vào các dịp vía Quan Công, tổ chức các hoạt động từ thiện, an sinh xã hội,... thu hút nhiều người Hoa và người Việt trong và ngoài địa phương tham gia. Năm 2019, miếu được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Bên cạnh Thiên Hậu thánh mẫu - vị nữ thần quan trọng trong tín ngưỡng của người Hoa, còn có các vị nữ thần, 2 cậu vốn thuộc tín ngưỡng dân gian của miền Trung được các lưu dân người Việt mang đến trong buổi đầu mở cõi, cùng với ông Địa với nét đặc trưng Nam Bộ.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi: “Tín ngưỡng thờ Thất Nương hay Thất Tinh của người Hoa và được người Việt tiếp thu, tín ngưỡng này khá hiếm ở Nam Bộ”.
Ảnh hưởng từ sự giao thoa văn hóa, Thất nương còn được hiểu là sự kết hợp của các vị nữ thần có vai trò bảo hộ, ban phúc cho cư dân như ở 2 ngôi miếu này, 7 bà là sự kết hợp của bà Thiên Hậu, bà Thủy Long, 5 bà trong trang phục giống với Ngũ Hành nương nương và đều có thờ 2 cậu. Các miếu còn phối thờ nhiều vị thần, Phật, Linh Sơn thánh mẫu, Chúa Xứ thánh mẫu,...
Ở 2 ngôi miếu bà Thiên Hậu, lễ cúng chính vào ngày 23/3 (Nông lịch), miếu Thất Nương cúng bà vào ngày 12, 13/2 (Nông lịch) với các nghi thức dân gian, có diễn xướng bóng rỗi, xây chầu - hát bội, thu hút đông người dân đến tham gia. Cách dùng chữ “tự” nghĩa là chùa trên các bảng hiệu ở các miếu nơi đây cũng ít thấy so với nhiều vùng khác ở Nam Bộ.
Vẫn chưa rõ về thân thế vị Tri phủ này, chưa có bài nghiên cứu về ngôi miếu được công bố, cũng không xác định được niên đại bởi trải suốt chiều dài lịch sử nơi phường Long An từng thuộc phủ Kiến An từ năm 1808, đến năm 1841 thuộc phủ Hòa Thạnh, giai đoạn 1852-1867 thuộc phủ Tân An và kể cả người trông miếu hiện nay cũng không biết nhưng có thể đoán định đây là vị quan đức độ, thương dân nên mới được dân thờ.
Các ngôi đình, miếu đã lưu dấu tiến trình mở cõi, định cư, lập nên các thiết chế văn hóa của người dân tại phường Long An, đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng dân cư, thể hiện tinh thần gắn kết mật thiết của các tộc người tại địa phương.
Nội dung: Phí Thành Phát - Minh Trí. Trình bày: Trịnh Anh Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét