15 thg 10, 2019

Đôi tay tài hoa của làng Hlang Ngol

Vô tình bắt gặp hình ảnh một thiếu nữ Jrai với chiếc gùi có nắp vô cùng xinh xắn trên vai, tôi lân la tìm hiểu về gốc tích, rồi tìm về làng Hlang Ngol (xã Ia Vê, huyện Chư Prông, Gia Lai) vào một ngày đầu đông. Chẳng mất nhiều thời gian, chúng tôi đã được diện kiến chủ nhân của những chiếc gùi có nắp nức tiếng gần xa-ông Siu Lơl.

Vừa bước vào nhà, chúng tôi dường như bị choáng ngợp trước những chiếc gùi vô cùng đẹp, đủ kích cỡ được chủ nhân để gọn gàng trên kệ tủ. Thấy chúng tôi say sưa ngắm từng chiếc gùi, mân mê từng họa tiết, hoa văn trên thân gùi, nắp gùi, già làng Kpuih Nhơl trải lòng: “Ngày xưa chỉ những gia đình giàu có, lắm trâu, nhiều rẫy mới có thể sở hữu những chiếc gùi có nắp thôi. Gùi có nắp khi đó ngoài việc dùng trong sinh hoạt hàng ngày còn được dùng để cất váy áo, đồ trang sức quý... của gia đình. Ở Hlang Ngol hiện cũng có vài người biết đan gùi nhưng chỉ là những chiếc gùi đơn giản để gùi thóc, gùi nước... Còn gùi có nắp đậy với hoa văn đẹp duy chỉ có ông Siu Lơl biết làm”. Già làng Kpuih Nhơl cũng có thâm niên với việc đan gùi, nhưng theo ông, đan gùi có nắp rất khó, nhất là việc tạo khối hình trụ tròn và nắp khum hình chóp nón. Do đó, phải là người khéo léo, kiên nhẫn và giỏi nghề mới có thể đan được gùi có nắp. Có lẽ vì vậy mà mỗi khi nhắc đến ông Siu Lơl, người làng đều cảm thấy rất đỗi tự hào và gọi ông với cái tên nghe rất mỹ miều: “người đàn ông tài hoa”!

Ông Siu Lơl đang hướng dẫn cách đan gùi nắp cho một thanh niên trong làng. Ảnh: Phương Dung

Đóng đáy trên biển Vũng Tàu

Dạo bước trên bãi biển Vũng Tàu du khách sẽ ấn tượng với những chiếc chòi được ngư dân xây dựng cách bờ biển khoảng chừng 1 km để làm nghề đóng đáy. Chúng tôi theo chân những ngư dân ra biển để khám phá nghề đóng đáy độc đáo có từ lâu đời. 

Theo chân anh Nguyễn Văn Bằng ra đóng đáy, thuyền đưa chúng tôi tiến sát vào hàng dây chăng giữa giàn đáy. Những cột bê tông to như cột nhà, được chằng chéo cả chục sợi dây, ghim chặt xuống đáy biển. Nối các cột là những hàng dây thừng căng cứng, ở giữa có ghép lưới vây kín khẩu đáy. Anh Bằng chia sẻ: “Gia đình có truyền thống nghề biển. Năm 1968, thấy người dân địa phương làm nghề đóng đáy nhiều nên ông cũng làm theo”. Hiện anh Bằng có ba giàn đáy, 18 nhân công và 2 thuyền chuyên chở. Giàn đáy nhỏ nhất chi phí xây dựng gần 200 triệu đồng. Nghề đóng đáy làm được quanh năm. Ba giàn đáy của anh Bằng thu được khoảng 100 triệu đồng/ tháng.

Được biết, nghề đóng đáy ở Vũng Tàu là nghề cha truyền, con nối. Nghề này được ngư dân vùng biển phía Nam Việt Nam nghĩ ra để đánh bắt thủy sản. Khu vực đóng đáy nằm ở những chỗ có mức nước sâu từ 15 - 16m, người ta đặt những cây cột gỗ hoặc bê tông từ 17 – 18 mét xuống lòng biển.

Người dân Tp. Vũng Tàu có một nghề truyền thống hết sức độc đáo đó là nghề đóng đáy. Ảnh: Tất Sơn

Tranh dân gian Hàng Trống

Tranh dân gian Hàng Trống là một trong những dòng tranh độc đáo, kết tinh nhiều giá trị thẩm mỹ, tinh thần và tín ngưỡng của người Kinh kỳ xưa. 

Tranh dân gian Hàng Trống ra đời tại Việt Nam vào khoảng thế kỷ thứ XVI, là kết quả giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo và Nho giáo, được các nhà nghiên cứu đánh giá không chỉ mang đậm tính thẩm mỹ, sự tinh tế của kỹ thuật in khắc gỗ, kỹ thuật pha màu, mà còn mang đậm yếu tố văn hóa, thời đại mà nó sinh ra.

Thời kỳ được cho là hoàng kim của dòng tranh này đó là vào cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Khi đó, tranh Hàng Trống được bán ở khắp các khu vực Hàng Bồ, Hàng Nón, Hàng Trống.

“Các con phố thủa đó quanh năm nhộn nhịp với tranh, người khắp nơi đổ về mua tranh để thờ phụng và chơi Tết. Mỗi dịp cuối năm, các chiếu tranh Hàng Trống bày bán la liệt ở hè phố tạo ra một nét riêng cho cái Tết của Hà Nội”, nghệ nhân Lê Đình Nghiên nhớ lại những ký ức tuổi thơ gắn liền với thời kỳ phồn thịnh của tranh dân gian Hàng Trống. Hiện nay, ông là người nghệ nhân cuối cùng của dòng tranh này và cũng là người duy nhất còn giữ được bí quyết nghề vẽ tranh dân gian Hàng Trống.

Ông Lê Đình Nghiên người nghệ nhân duy nhất còn lại của dòng tranh Hàng Trống.

Phỗng đất Bắc Ninh

Phỗng đất là món đồ chơi truyền thống của trẻ em Việt Nam thời xưa, cũng là món đồ được các đền, chùa sử dụng trong cúng bái. Nặn phỗng đất ở thôn Đông Khê, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh đã trở thành nét đẹp văn hóa dân gian, góp phần giáo dục thế hệ trẻ về lịch sử, bản sắc văn hóa Việt. 

Trong mâm cỗ Trung thu ngày xưa, ngoài mâm ngũ quả, bánh kẹo… nhất định phải có một bộ phỗng đất, đèn ông sao và một ông tiến sĩ giấy.

Bộ phỗng đất truyền thống gồm 5 hình tượng: đứng giữa là Đức Phật, mang ý nghĩa tâm linh, mong muốn con cháu luôn phải sống có lương tâm, đạo đức; hình tượng thứ 2, 3 là ông già và em bé, tượng trưng cho sự tiếp nối giữa các thế hệ; thứ 4 là con chim, thể hiện cho khát vọng tự do, hòa bình; cuối cùng là con rùa, tượng trưng cho sức mạnh và sự trường tồn.

Để làm một bộ phỗng đất cũng khá kỳ công. Nguyên liệu làm phỗng đất là đất sét và giấy bản. Đất sét được đào ở độ sâu từ 2-2,5m, đem phơi khô, đập, giã thành bột mịn rồi sàng, đến khi sờ vào có độ mịn mát tay là được. Giấy bản ngâm trong nước 7 ngày, sau khi đã mủn hoàn toàn thì trộn đất và giấy với nhau, vừa trộn tay, vừa dùng chày đập cho đến khi hỗn hợp này quyện lại rồi mang ra nặn, nặn xong phơi ra ngoài ánh nắng mặt trời cho khô. 

Đất dùng để nặn phỗng là đất sét có độ mịn và sạch. Ảnh: Khánh Long

Tranh Đông Hồ - Hơi thở của làng Việt

Từ xa xưa, người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ đã có thói quen mua tranh Đông Hồ về trang hoàng nhà cửa vào dịp Tết với ước mong hạnh phúc no ấm. Vì thế, Tranh Đông Hồ đi vào cuộc sống của người Việt qua nhiều thế hệ và đã được Nhà nước công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đến nay, Tranh Đông Hồ đã vượt ra khỏi làng quê, được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật như hội họa, điêu khắc, thời trang, gốm sứ đang mang lại sức sống mới cho dòng tranh đã trải qua thăng trầm của thời cuộc. 

Bảo tồn nét đẹp Tranh Đông Hồ 


Tranh Đông Hồ có xuất xứ từ thế kỷ 17 ở làng Đông Hồ, xã Song Hồ huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Khoảng năm 1945, làng Đông Hồ có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh. Trải qua thăng trầm của thời gian đến nay làng Đông Hồ còn 2 gia đình làm tranh là gia đình nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam và Nguyễn Đăng Chế. Họ đã bảo tồn được hơn 1000 bản khắc gỗ và phục chế 500 bản mẫu cổ.


14 thg 10, 2019

Ấn tượng những giá hầu đồng đặc sắc trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ

3 năm sau khi Di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, các hoạt động nghi lễ đặc sắc gắn liền với di sản này diễn ra sôi nổi ở nhiều địa phương. Ấn tượng nhất trong số đó là nghi lễ hầu đồng. 

Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian thuần Việt, biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Theo các nghiên cứu về văn hóa tín ngưỡng, Tam phủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu tương ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ: Thiên phủ (miền Trời), Nhạc phủ (miền rừng núi) và Thoải phủ (miền sông nước). Đứng đầu mỗi phủ là một vị thánh Mẫu: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải. Trong ảnh là quang cảnh một điện thờ Mẫu điển hình.